Nhận diện tổn thương t.iền ung thư cổ tử cung
Ung thư cổ tử cung UTCTC) là một trong những bệnh UT phổ biến hàng đầu ở phụ nữ trên thế giới. Bệnh có thể được chữa khỏi nếu phát hiện bệnh sớm. Tuy nhiên phần lớn những người mắc bệnh không biết mình UTCTC không có dấu hiệu nổi bật.
Ảnh minh họa
Nguyên nhân gây ra t.iền UTCTC
Nguyên nhân gây nên t.iền UTCTC chủ yếu do bị nhiễm ít nhất 1 type HPV nguy cơ cao ở đường s.inh d.ục, thường gặp là các type như 16, 18,31, 33, 35, 39, 41, 45, 51…
Một số yếu tố nguy cơ dẫn tới khả năng bị nhiễm UTCTC: Do quan hệ t.ình d.ục sớm. Do quan hệ t.ình d.ục không an toàn, có nhiều bạn tình… Do sinh con nhiều lần. Do vệ sinh bộ phận s.inh d.ục không đúng cách. Do điều trị không triệt để các bệnh lý của tử cung và bộ phận s.inh d.ục như viêm nhiễm. Hút t.huốc l.á cũng là một trong những yếu tố nguy cơ góp phần tăng khả năng bị nhiễm UTCTC. Do mắc các bệnh lý về suy giảm miễn dịch, đái tháo đường…
Giai đoạn t.iền UTCTC thường không có biểu hiện về lâm sàng. Sau giai đoạn này, có khoảng 5-10% bệnh nhân sẽ tiến triển thành UT do sự biến đổi của các type HPV trong tử cung.
Ở những người bị nhiễm HPV nguy cơ cao phối hợp với các yếu tố nguy cơ khác sẽ tạo ra các tổn thương ban đầu, các tổn thương này có thể tồn tại và tiến triển trong khoảng từ 10-20 năm qua các giai đoạn của tân sản nội biểu mô cổ tử cung để dần hình thành UTCTC.
Video đang HOT
10 dấu hiệu ung thư cổ tử cung.
Các tổn thương t.iền UTCTC
T.iền UTCTC hay còn gọi là giai đoạn ung thư biểu mô tại chỗ. Ở giai đoạn này, các tế bào biểu mô bất thường mới bắt đầu xuất hiện trong lớp lót CTC mà chưa xâm lấn sâu xuống mô chính, chưa lan sang các bộ phận khác.
Tân sản nội biểu mô CTC hay nghịch sản CTC là một trong những bất thường tế bào biểu mô thường gặp của niêm mạc của CTC, có nguy cơ ác tính nhưng chưa có sự xâm nhập các tầng mô đệm của tử cung. Tình trạng này thường xuất hiện ở vùng chuyển tiếp giữa biểu mô lát tầng với biểu mô tuyến hay còn gọi là biểu mô trụ của CTC.
Tân sản nội biểu mô CTC thường gặp ở độ t.uổi từ 30 – 50, là một trong những tổn thương t.iền UTCTC do có thể tiến triển thành ung thư tại chỗ dẫn tới xâm lấn CTC hình thành nên UTCTC. Tổn thương này được hình thành ở biểu mô lát tầng CTC do sự xâm nhiễm của ít nhất 1 type HPV nguy cơ cao. Đó là t.iền đề của ung thư xâm lấn CTC. Do đó, việc phát hiện sớm các tổn thương này có ý nghĩa quan trọng trong việc chẩn đoán sớm UTCTC.
Tùy thuộc theo số lượng tế bào bị tổn thương bất thường mà người ta chia UTCTC thành các giai đoạn như sau:
Giai đoạn I: Số lượng tế bào biểu mô bất thường chiếm 13 chiều dày lớp biểu mô.
Giai đoạn II: Số lượng tế bào biểu mô bất thường chiếm 23 chiều dày lớp biểu mô.
Giai đoạn III: Số lượng tế bào biểu mô bất thường chiếm toàn bộ chiều dày của lớp biểu mô.
Ngày nay, để tiện hơn cho việc chẩn đoán và điều trị UTCTC, người ta phân tổn thương t.iền UTCTC thành 2 loại là tổn thương biểu mô lát độ thấp (LSIL) và tổn thương trong biểu mô lát độ cao (HSIL) để tương đồng với kết quả xét nghiệm tế bào học.
Trong các nguy cơ UTCTC xâm lấn ở nữ giới, kết quả HSIL là một trong những yếu tố quan trọng. Theo một nghiên cứu về đ.ánh giá nguy cơ t.iền ung thư hoặc ung thư trong 5 năm của HSIL ở phụ nữ trong độ t.uổi từ 30 – 64 t.uổi cho thấy, ở độ t.uổi này, kết quả phết tế bào CTC bất thường được thể hiện trong bảng HSIL đơn độc, tổn thương trong biểu mô CTC ở giai đoạn grad 2 hoặc thậm chí nặng hơn.
UTCTC là một trong những bệnh lý nguy hiểm, không những gây ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của người phụ nữ mà còn có thể di căn lây lan sang các bộ phận khác gây ảnh hưởng đến sức khỏe. Do đó, phụ nữ nên đi khám phụ khoa định kỳ, làm các xét nghiệm tầm soát để phát hiện bệnh sớm nhất có thể.
Phương pháp xét nghiệm nước bọt đầu tiên phát hiện được ung thư tiềm ẩn
Phương pháp xét nghiệm nước bọt đơn giản, được phát triển bởi các nhà khoa học y sinh của Đại Học Công Nghệ Queensland, đã giúp phát hiện sớm ung thư vòm họng ở 1 người không có triệu chứng.
Virus HPV hiện nay là nguyên nhân hàng đầu gây các bệnh ung thư vùng hầu họng, bao gồm lưỡi, amidan và cuống họng. "Một loạt các xét nghiệm nước bọt mà chúng tôi thực hiện đã đưa ra cảnh báo và giúp phát hiện ung thư, trước khi bệnh nhân có bất kỳ triệu chứng nào" - PGS Chamindie Punyadeera, đại diện nhóm tác giả cho biết - "Điều này cho phép loại bỏ amidan chứa ung thư với kích thước 2 mm của bệnh nhân, chỉ bằng phẫu thuật tại chỗ".
Cũng theo chuyên gia này, tỉ lệ mắc ung thư vòm họng do virus HPV đang có xu hướng tăng ở các quốc gia phát triển. Điều đáng nói là bệnh nhân chỉ phát hiện ra tình trạng của mình, khi ung thư đã ở giai đoạn muộn. Lúc này, để điều trị, bác sĩ phải sử dụng các phương pháp phức tạp và ảnh hưởng đến cơ thể nhiều hơn.
"Ở Mỹ, ung thư vòm họng do HPV đã vượt qua ung thư cổ tử cung, để trở thành loại ung thư do virus HPV phổ biến nhất. Không giống như ung thư cổ tử cung, đến tận bây giờ, chúng ta vẫn chưa có một phương pháp kiểm tra sàng lọc ung thư vòm họng chính thức" - PGS Punyadeera phân tích.
Nhóm nghiên cứu cho biết, phương pháp xét nghiệm mới này được hoàn thiện thông qua một đề tài khoa học, với sự tham gia của 665 tình nguyện viên.
Được biết, những người tham gia sẽ được xét nghiệm sự có mặt của ADN HPV-16. Những trường hợp có hiện diện HPV-16 trong mẫu xét nghiệm sẽ tiếp tục được lặp lại việc xét nghiệm theo từng chu kì thời gian. Thông qua đó, nhóm tác giả có thể nhận diện ai là người có nguy cơ cao mắc ung thư vòm họng.
PGS Punyadeera cho biết: "Bệnh nhân ung thư vòm họng được chúng tôi phát hiện đã có kết quả xét nghiệm dương tính với HPV-16 trong suốt 36 tháng. Số lượng ADN HPV-16 trong mẫu bệnh phẩm của người này cũng tăng dần trong các lần kiểm tra vào tháng thứ 6, 12 và 36".
Kết quả kiểm tra chuyên sâu đã cho thấy, bệnh nhân này có một khối u biểu mô tế bào vảy với kích thước 2mm ở amidan trái, và đã nhanh chóng được điều trị bằng phẫu thuật cắt amidan. Điều này giúp cho bệnh nhân có cơ hội chữa khỏi cao, trong khi phương pháp điều trị lại rất đơn giản.
"Kể từ khi phẫu thuật, bệnh nhân không có dấu hiệu về sự hiện diện của ADN HPV-16 trong mẫu nước bọt" - PGS Punyadeera chia sẻ - "Hiện tượng tăng dần của lượng ADN virus HPV trong mẫu nước bọt ở bệnh nhân ung thư vòm họng, mà chúng tôi đã ghi nhận, cần được tính toán và đ.ánh giá kỹ lưỡng, bởi nó có thể mở ra các phương pháp xét nghiệm sớm ung thư vòm họng đầy tiềm năng.
Nhóm tác giả cho biết, trong thời gian sắp tới họ sẽ thực hiện một nghiên cứu chuyên sâu, để đ.ánh giá độ tin cậy của phương pháp xét nghiệm này, cũng như xây dựng cách đ.ánh giá rủi ro mắc ung thư vòm họng ở những người ghi nhận được sự tồn tại của ADN virus HPV, trong nước bọt trong thời gian dài.
Phát triển thành công “dao thông minh” giúp phát hiện nhanh ung thư Các nhà khoa học đã phát triển một loại "dao thông minh" có thể phát hiện ung thư từ chính phần mô sống mà thiết bị này tiếp cận, với độ nhạy và độ đặc hiệu đều đạt 100%. Theo chia sẻ của nhóm tác giả, thiết bị này hoạt động dựa vào việc phân tích tình trạng trao đổi chất bên trong...