Nghề đánh bóng bản hit của ca sĩ Việt
Trong dây chuyền sản xuất âm nhạc, mastering là công đoạn cuối cùng, giúp tối ưu sản phẩm trước khi ra mắt thị trường.
Châu Đăng Khoa mô tả thế này về công việc mastering: “Công đoạn sản xuất một ca khúc cũng giống như quá trình trong dây chuyền may mặc. Trong đó, vai trò mastering tương tự người thợ may ở khâu cuối cùng lắp ráp các chi tiết, cẩn trọng từng mũi kim chỉ để cho ra chiếc áo hoàn chỉnh”.
Trong khi đó, OnlyC ví công việc mastering như những người “make-up”, ở đây là make-up âm thanh, giúp sản phẩm chỉn chu nhất trước khi gửi gắm đến khán giả.
Trong âm nhạc, các master hoạt động thầm lặng, nhưng giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Những năm qua, các sản phẩm trên thị trường nhạc Việt phần lớn đều có công đoạn mastering. Đây là tín hiệu tích cực, cho thấy nhạc Việt đang chuẩn hóa quy trình sản xuất nhằm từng bước tiếp cận quốc tế.
Tại sao phải mastering?
Dây chuyền sản xuất âm nhạc chuẩn trên thị trường hiện tại bao gồm các bước: Sáng tác – demo ca khúc – phối khí – thu âm – mix – mastering.
Sáng tác là vai trò tách biệt. Phần lớn ca khúc Vpop tách riêng khâu phối khí, bước mix-mastering gộp với nhau. Một số sản phẩm hướng tới yếu tố chuẩn mực, chuốt trọn vẹn sẽ tách cả vai trò mix và mastering.
Về chuyên môn, các bước sáng tác, phối khí đòi hỏi kỹ năng và nhất là sự sáng tạo. Vai trò mix thiên về yếu tố kỹ thuật, phần còn lại là cảm quan, tư duy âm nhạc.
Trong khi đó, công đoạn mastering 100% nằm ở yếu tố kỹ thuật và các master được gọi bằng danh xưng “kỹ sư âm thanh”.
Châu Đăng Khoa cho rằng dây chuyền sản xuất ca khúc Việt cần tối ưu hơn.
Công việc mastering được chú trọng đặc biệt trên thị trường Âu Mỹ – Kpop từ hàng chục năm trước. Bernie Grundman – huyền thoại trong giới mastering – có thâm niên làm nghề gần 40 năm. Trong khi đó, nữ master Emily Lazar – từng thắng giải Grammy cho hạng mục sản xuất – đã mastering hơn 3.000 album.
Còn với thị trường nhạc trẻ Việt Nam, công việc mastering bắt đầu được định hình trong vài năm gần đây. Các ca sĩ dần nhìn ra mastering là vai trò quan trọng, như “bộ lọc” quyết định để đầu ra của sản phẩm đạt chất lượng như ý muốn.
OnlyC từ góc nhìn của người mastering cho loạt ca khúc, chia sẻ cùng Zing về công việc này: “Về cơ bản, đây là quá trình để đo âm lượng, độ lớn, làm rõ không gian ca khúc để phát lên các nền tảng âm nhạc, hoặc trên các thiết bị nghe nhạc để âm thanh đúng như mong muốn mà ca sĩ muốn gửi tới khán giả”.
OnlyC nhấn mạnh công việc mastering có thể thực hiện bằng các thiết bị analog, hoặc digital. Các master ngồi hàng giờ, hàng ngày để “make-up” tổng thể bản nhạc – bao gồm hàng chục, đến cả trăm chi tiết nhỏ của vocal (giọng hát) và beat (nền nhạc được phối bởi producer).
Video đang HOT
Một master giỏi phải đảm bảo các yếu tố: Đầu tư thiết bị đủ chất lượng, có thẩm mỹ nghệ thuật và dày dặn kinh nghiệm. Trong đó, kinh nghiệm là khả năng bao quát thị trường, và độ am hiểu của các master đối với thế mạnh giọng hát từng ca sĩ.
Nhạc sĩ Châu Đăng Khoa – dưới góc độ của nhà sản xuất, hợp tác cùng các master – gọi mastering là cửa ải cuối cùng cho một ca khúc.
Nghĩa là qua các bước phối khí, thu âm, mix, những người giữ từng vai trò sẽ tự “nhặt sạn” trong quá trình sản xuất. Mastering sẽ nhặt những viên sạn còn sót lại, rồi đóng cú chốt cho một dây chuyền sản xuất.
Một ca khúc hoàn chỉnh đúng nghĩa sẽ cho ra thứ âm thanh sạch sẽ không tạp âm. Qua công đoạn mastering, ca khúc được xử lý để cho ra âm thanh chất lượng nhất, đáp ứng nhu cầu thưởng thức của những khán giả sở hữu thiết bị đầu ra âm thanh “khủng”.
Với một bản nhạc, thưởng thức ở bộ loa/tai nghe trị giá vài trăm nghìn đồng, sẽ khác với thiết bị vài triệu, vài chục triệu, cho đến hàng trăm triệu đồng. Đó là lý do một ca khúc chất lượng, phải được mastering trên tiêu chuẩn tối ưu.
“Chi phí sản xuất ca khúc Việt rẻ bậc nhất khu vực”
Dây chuyền sản xuất ca khúc trên thị trường Vpop đang không đồng bộ. Có ca sĩ bắt tay cùng 4 người cho các vai trò sáng tác, phối khí, mix và mastering. Phần lớn ca sĩ chỉ cần 3 người, với bước mix-mastering gộp chung. K-ICM là trường hợp cá biệt khi một tay làm mọi công đoạn.
Ê-kíp gồm ca sĩ, sáng tác, phối khí, mix-mastering đang là công thức cơ bản trên thị trường. Trong đó, người phối khí, mix-mastering thông thường được trả thù lao theo từng sản phẩm và không có quyền lợi phát sinh.
Một producer trên thị trường tiết lộ cùng Zing : “Thù lao của producer có tiếng sẽ dao động ở mức 30-40 triệu. Nhóm producer chất lượng hàng đầu, hạng A đến A có thể được đãi ngộ cao hơn”.
Zing tiếp tục đặt câu hỏi cho producer này về thù lao của công việc mix-mastering, được trả lời: “Gần như tương tự những gì producer nhận được. Sự khác biệt trong thù lao của công việc mix-mastering, nằm ở yếu tố kinh nghiệm. Tên tuổi master càng lớn, ca sĩ phải chịu khó chi đậm hơn”.
Về vấn đề thu nhập của mastering trên thị trường, OnlyC chia sẻ với Zing : “Giá trị mastering cho một ca khúc trên thị trường Việt Nam rất rẻ so với thị trường có nền âm nhạc phát triển”.
OnlyC là nhà sản xuất đa năng, kiêm cả vai trò ca sĩ và nhạc sĩ.
Trong khi đó, Châu Đăng Khoa từ chối tiết lộ con số cụ thể, nhưng nhấn mạnh: “Tình hình bây giờ có vẻ khả quan hơn, vì yêu cầu ngày càng lớn, dẫn đến giá trị của ê-kíp sản xuất được coi trọng. Tôi từng có cơ hội làm việc với các đối tác ở Hàn Quốc, Hong Kong, Thái Lan. Chi phí sản xuất một ca khúc ở Việt Nam thuộc hàng rẻ nhất khu vực”.
Đã đến lúc nhìn nhận chuẩn xác vai trò của ê-kíp sản xuất âm nhạc. Họ hoạt động âm thầm, nhưng là người hỗ trợ, nâng đỡ cho ca sĩ tỏa sáng. Các khán giả bắt đầu nhắc đến producer, nhưng mix-mastering vẫn là khái niệm còn xa lạ ở nhạc Việt.
OnlyC cho rằng về chất lượng giọng hát và chiều sâu sáng tác, ca khúc của Vpop khá tốt so với bình diện khu vực. Điều nhạc Việt còn thiếu là chất lượng của beat thật sáng tạo, hiện đại, cùng sự chỉn chu trong quá trình thu âm, mix và mastering.
Vpop đang đi sau một quãng khá xa so với các cường quốc âm nhạc thế giới, nhưng đã bắt đầu vào đúng guồng quay. Bước khởi đầu là ê-kíp sản xuất với 3-4 cho một sản phẩm. Qua thời gian, những bộ sậu đó cần cải thiện số lượng để đi sâu vào tiểu tiết của từng công đoạn, rút ngắn thời gian và cải thiện chất lượng cho dây chuyền tạo hit.
Châu Đăng Khoa nói rằng nhiều năm trước, cá nhân anh ôm đồm tất cả, từ sáng tác, phối khí và thu âm. Nhưng bây giờ, nhạc sĩ sinh năm 1990 không thể làm như vậy, bởi anh lo cái tôi, sự chủ quan có thể chi phối tất cả.
Nhiều cái đầu cùng gộp lại, mỗi người phát huy thế mạnh riêng để góp sức cho một sản phẩm, sẽ tốt hơn chỉ một cái đầu giải quyết tất cả.
Những lần MV Kpop bị nghi 'đạo nhái' của ca sĩ Việt
Chuyện Kpop vướng nghi án "đạo" Vpop cũng không phải là chưa từng xảy ra nhưng tất cả đều bị bác bỏ với lý luận chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên.
Từ trước đến nay ca sĩ Việt có những sản phẩm bị cho là giống của Kpop không phải là chuyện ít gặp. Thế nhưng không phải lúc nào Kpop cũng "trong sạch" khi mà nhiều MV có ý tưởng tương đối giống với Vpop.
Dưới đây là một số trường hợp hy hữu từng gây tranh cãi cho việc Kpop có "sao chép" Vpop hay không?
Park Bom 2NE1 - Nguyên Vũ
Dont Cry được phát hành vào năm 2012 là một trong những ca khúc ấn tượng nhất trong sự nghiệp solo của cựu thành viên 2NE1 Park Bom. Thế nhưng MV này đã bị nghi ngờ là vay mượn ý tưởng từ MV Vắng Em đã được Nguyên Vũ cho ra mắt từ năm 2007.
Fan Việt khi đó đã chỉ ra phần cốt truyện và nhiều góc quay, đặc biệt là hình ảnh chú bướm đóng vai trò dẫn dắt của Dont Cry giống với Vắng Em.
Cả hai chỉ khác nhau ở điểm kết khi Nguyên Vũ muốn thực hiện cả một bộ phim ca nhạc dàn trải mang yếu tố kinh dị, còn Park Bom thì dừng lại ở dạng MV gói gọn riêng lẻ.
Nói về nghi vấn "con cưng" bị sao chép, Nguyên Vũ bày tỏ nỗi băn khoăn: " Tôi biết chuyện này đã lâu qua các fan, gần đây mới có điều kiện xem kỹ MV của Park Bom. Tôi phải thừa nhận là có khá nhiều điểm tương đồng giữa Dont Cry và Vắng em." Tuy nhiên, nam ca sĩ cũng cho biết, anh không hề có ý định kiện tụng hay làm ầm ĩ thêm về vụ việc này.
K.A.R.D - Yanbi và Yến Lê
Năm 2017, sau khi K.A.R.D comeback với Hola Hola các netizen Việt đã chỉ ra điểm trùng khớp giữa MV này và MV Cò Lả của Yanbi và Yến Lê.
Cụ thể là ở phân đoạn ngắn của phần vũ đạo, động tác của 2 MV đều khá tương đồng. Nhất là MV của Yanbi và Yến Lê lại còn ra mắt trước 2 tháng với MV của K.A.R.D
Cảnh vũ đạo trong MV của K.A.R.D ...
... Rất tương đồng với động tác trong MV "Cò Lả"
Sau đó Yến Lê đã chia sẻ về vấn đề này: "Tôi đã xem qua MV này, tôi cũng thấy có vài giây hình ảnh của động tác giống với Cò Lả. Nhưng với tôi, đây chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên thôi".
Yanbi cũng bày tỏ: "Đây là một bài hát hay về âm nhạc lẫn hình ảnh. Tôi nghĩ style nhảy Choreography giống nhau 1 vài động tác tay thì là chuyện bình thường thôi".
Đồng quan điểm với Yanbi, biên đạo của Cò Lả cũng cho rằng, anh không nghĩ nhóm K.A.R.D đạo nhái mà đơn giản chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên bởi động tác basic move của dance hall khá thịnh hành thời điểm đó.
Mino - Sơn Tùng M-TP
Cuối năm 2018, thành viên Mino của WINNER đã chính thức ra mắt album solo đầu tay với tên gọi XX và ca khúc chủ đề FIANCÉ. Ngay lặp tức MV bị cư dân mạng Việt Nam chỉ ra nhiều điểm giống với MV Lạc Trôi của Sơn Tùng M-TP.
2 MV đều lấy khung cảnh cung điện, trang phục và những góc máy quay cũng có phần tương tự. Thậm chí một số đoạn nhân vật nam chính ngồi ngạo nghễ, uống cũng khá giống nhau.
Lần này, đông đảo người hâm mộ đều bênh vực Sơn Tùng M-TP vì sản phẩm của anh phát hành trước, còn FIANCÉ của Mino mới chỉ lên sóng vào ngày 26/11. Bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng sự trùng hợp giữa 2 MV này chỉ là ý tưởng lớn gặp nhau mà thôi.
Ca sĩ Việt chấp nhận rủi ro Orange, K-ICM, Monstar giới thiệu MV trong thời điểm thị trường im ắng. Họ muốn mang âm nhạc cổ vũ tinh thần khán giả. Thời gian qua, số MV được phát hành thưa thớt hơn so với đầu năm. Bởi ảnh hưởng của dịch bệnh và các phương thức quảng bá bị hạn chế, nghệ sĩ cũng cẩn thận hơn trong việc đầu...