Ngày đại thắng của Không quân nhân dân Việt Nam
Ngày 12-5-1967, các tốp máy bay Mỹ ào ạt bay vào hướng Tây Nam (Hà Nội), với ý đồ tấn công các mục tiêu quanh Hà Nội và Sân bay Hòa Lạc. Sở chỉ huy Quân chủng quyết định cho MiG-17 đánh trước ở vòng trong, chặn đội hình tấn công của Không quân Mỹ.
Én bạc chuẩn bị xuất kích. Ảnh tư liệu
Tại Sở chỉ huy Trung đoàn 923, kíp trực chỉ huy quyết định sử dụng biên đội nhiều kinh nghiệm trận mạc là Cao Thanh Tịnh, Lê Hải và Ngô Đức Mai, Hoàng Văn Kỷ trực ban chiến đấu. Lúc 15 giờ 31 phút, biên đội nhận lệnh cất cánh từ Sân bay Gia Lâm, sau đó, lấy độ cao 3.500m, bay về hướng Tây, đến khu vực chiến đấu trên Sân bay Hòa Lạc. Khi biên đội đến ngang đỉnh Sân bay Hòa Lạc thì gặp đội hình máy bay Mỹ. Đây là đội hình máy bay F-4 của Không đoàn 366 do Đại tá Gaddis dẫn đầu, Đại tá Norman bay số 2, trong trận này lần đầu máy bay địch mang theo pháo Cannon M-61(20mm) để không chiến với MiG của ta. Đội hình máy bay Mỹ lúc này đang đi vào từ hướng Đông sân bay. Số 1 – Cao Thanh Tịnh phát hiện cả F-4 và F-105. Trận không chiến giữa tốp máy bay của Không quân nhân dân Việt Nam với Không quân Mỹ diễn ra quyết liệt trên vùng trời Hòa Lạc.
Các máy bay F-4 và F-105 của Mỹ liên tục phóng tên lửa, riêng các máy bay F-105 còn nổ súng rất quyết liệt vào máy bay MiG của ta. Được sự dẫn dắt của đài chỉ huy bổ trợ, biên đội MiG của ta đã tách thành 2 tốp chiến đấu kiên cường với máy bay địch. Số 1- Cao Thanh Tịnh và số 2- Lê Hải quần nhau với F- 105 ở tầng thấp, sau những phút bám sát quyết liệt, phi công Tịnh đã nổ súng vào một chiếc F-105, nhưng không trúng. Ngay sau khi thoát ly, số 1- Cao Thanh Tịnh phát hiện 2 chiếc F- 4 đang bay phía trước đã bám theo, khi đến cự ly thích hợp đã nổ súng chính xác bắn rơi 1 chiếc F-4.
Trong khi đó, các phi công Ngô Đức Mai và Hoàng Văn Kỷ quần nhau với chiếc F-4C chui từ dưới mây lên, họ lập tức bám riết trên lưng chiếc máy bay đó. Đây chính là chiếc máy bay do Đại tá Gaddis điều khiển. Đến cự ly 300m, độ cao 1.500m, Ngô Đức Mai nổ 2 loạt súng vào chiếc F- 4 của Gaddis. Do các máy bay hai bên lúc ẩn lúc hiện trong các đám mây, Gaddis chưa kịp định thần xem chiếc MiG- 17 đang ở đâu thì đã bị trúng loạt đạn tiếp theo của Ngô Đức Mai. Chiếc F- 4C bùng cháy, rơi cách Sân bay Hòa Lạc 20km, Gaddis nhảy dù và bị bắt.
Phi công MiG số 4- Hoàng Văn Kỷ trong khi yểm hộ số 3, đã phát hiện tốp F-105 có F-4 yểm hộ phía trên, anh nhanh chóng kéo lên bám theo. Do phía Không quân Mỹ có lực lượng đông, liên tục phóng tên lửa, phi công Hoàng Văn Kỷ phải liên tục cơ động, vòng tránh, nhưng anh cũng kịp thời bám sát và nổ súng bắn rơi 1 chiếc F-4C. Như vậy biên đội MiG-17 Tịnh, Hải, Mai, Kỷ đều nổ súng và bắn rơi 3 chiếc F- 4.
Trong khi trận không chiến đang diễn ra tại khu vực Sân bay Hòa Lạc, Bộ Tư lệnh Không quân tiếp tục cho biên đội MiG-17 Dương Trung Tân, Phan Trọng Vân, Trương Văn Cung và Nguyễn Văn Thọ cất cánh từ Sân bay Nội Bài, vào khu chiến ở Vĩnh Yên, Phúc Yên để đón đánh tốp máy bay Mỹ bay vào từ phía Tây Tam Đảo. Với góc vào 100 độ, ở cự ly 5km, biên đội đã phát hiện tốp lớn F-105. Số 1 – Dương Trung Tân hô thả thùng dầu phụ, lao vào không chiến. Các máy bay F-105 vội quẳng bom quay sang không chiến với 4 chiếc MiG-17. Trận này, phi công Phan Trọng Vân đã bám sát tốp F-105 và bắn rơi 1 chiếc.
Lúc 16 giờ 40 phút, Sở chỉ huy Không quân và Trung đoàn 921 (chủ trì kíp trực tại Trung đoàn 921 là Trung đoàn trưởng Trần Mạnh và Phó trung đoàn trưởng Trần Hanh, trực dẫn đường là Phạm Công Thành) cho biên đội 2 chiếc MiG-21 gồm Lê Trọng Huyên – máy bay số 26 và Đồng Văn Song – máy bay số 31 cất cánh từ Sân bay Nội Bài. Sau khi cất cánh, biên đội 2 chiếc được dẫn tới khu chiến ở Mai Châu, Vạn Yên, đón đánh các tốp F-105 đang trên đường bay ra. Chỉ 1 phút sau, số 1 phát hiện 2 chiếc F-105 phía trước bên phải, lệnh vứt thùng dầu phụ, hô số 2 yểm hộ số 1 vào công kích. Khi đến cự ly 1.000m, âm lượng đầu nhiệt tốt, phi công Huyên ấn nút phóng tên lửa. Quả tên lửa nổ bên trái chiếc F-105. Số 1 kéo lên thoát ly và hô số 2 vào công kích. Số 2 phi công Đồng Văn Song đã bám sát, chiếm vị trí tốt và phóng tên lửa R-3S, bắn rơi 1 chiếc F-105. Sau đó, phi công Song kéo cao thoát ly về sân bay hạ cánh an toàn lúc 16 giờ 59 phút.
Có thể nói đây là ngày đại thắng của Không quân nhân dân Việt Nam, các biên đội của 2 Trung đoàn 921 và 923 với 2 chiếc MiG-21 và 10 chiếc MiG-17 đã xuất kích bắn rơi 5 máy bay Mỹ. Đồng thời, tất cả máy bay MiG-21 và MiG-17 cất cánh đều về hạ cánh an toàn.
(Theo Infonet)
Video đang HOT
"Hổ chột" của Bộ đội Xe tăng Việt Nam là ai mà khiến kẻ địch khiếp sợ đến thế?
Những năm 1971-1972, các đài kỹ thuật của ta ở khu vực Đường 9 - Bắc Quảng Trị thường thu được một câu hỏi về xe tăng với tần suất khá dày trên đài địch: "Hổ Chột ở đâu?".
Bộ đội xe tăng Việt Nam. Ảnh: QĐND.
Vậy Hổ Chột là ai và tại sao lại được phía bên kia quan tâm đến thế? Xin thưa, đó chính là một biệt danh do phía bên kia đặt cho đồng chí Đào Huy Vũ, lúc đó là Thượng tá, quyền Tư lệnh Binh chủng Tăng - Thiết giáp (TTG).
Từ thày giáo làng trở thành Tư lệnh xe tăng
Đào Huy Vũ sinh năm 1924 trong một gia đình nông dân ở xã Xuân Canh, Đông Anh, Hà Nội. Nhờ tư chất thông minh và có lòng hiếu học nên ông học rất giỏi và đã có bằng certificat của Pháp khi còn rất trẻ.
Có tý chữ nghĩa ông được bổ làm "hương sư" - thày giáo làng ở ngay tại quê mình. Những ngày tháng đó ông đã được cách mạng giác ngộ và rất tích cực tham gia vào phong trào "Thanh niên cứu quốc" ở địa phương.
Tháng 8.1945 ông nhập ngũ và lập tức tham gia vào đoàn quân Nam tiến vào chiến đấu ở địa bàn Buôn Mê Thuột. Tiếp đó, ông tham gia chiến đấu trên nhiều chiến trường cả ở Việt Nam và Thượng Lào. Kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp ông là Trung đoàn phó của một trung đoàn bộ binh.
Hòa bình lập lại, ông được chọn về bồi dưỡng văn hóa, ngoại ngữ tại Trường Văn hóa Quân đội. Tháng 8.1956, ông được giao nhiệm vụ làm Trưởng đoàn Đoàn cán bộ - chiến sĩ sang đào tạo về xe tăng tại Trung Quốc.
Tháng 10.1959, khi Trung đoàn xe tăng 202 được thành lập, ông được bổ nhiệm chức vụ trung đoàn trưởng. Tháng 6 năm 1965, khi Bộ Tư lệnh Tăng - Thiết giáp được thành lập, ông được giao nhiệm vụ Quyền Tư lệnh binh chủng (không có Tư lệnh).
Vậy là sau một hành trình 20 năm đầy biến động, vị hương sư Đào Huy Vũ đã trở thành người đứng đầu Binh chủng Tăng - Thiết giáp - một trong những binh chủng hiện đại của Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN).
Bộ đội xe tăng Việt Nam. Ảnh: QĐND.
Không ngừng học hỏi, nghiên cứu sáng tạo
Là một người có vốn Hán học khá uyên thâm, ông luôn "biết mình, biết người". Chính vì vậy, ông biết rằng để có đủ khả năng đảm nhiệm chức trách người chỉ huy cao nhất của một binh chủng mới không có con đường nào khác hơn là không ngừng học tập. Không chỉ học ở trường mà ông còn hết sức chú trọng tự học và học trong thực tiễn.
Những người đã từng ở bên cạnh ông cho biết, dù đi đâu, làm gì... lúc nào bên mình ông cũng có một vài cuốn sách, không sách chuyên môn thì sách ngoại ngữ... Nhờ vậy, chỉ sau khi về nước khoảng 2 năm ông đã có thể đọc hiểu được các tài liệu kỹ, chiến thuật chuyên ngành bằng tiếng Nga.
Từ kinh nghiệm thực tế trận mạc kết hợp với những kiến thức đã thu lượm được trong học tập và tự học, tự nghiên cứu... ông cho rằng: Với đặc điểm tình hình địch, địa hình, đường sá... Việt Nam, tác chiến xe tăng không thể áp dụng máy móc các hình thức chiến thuật như của bạn mà cần có những thay đổi nhất định mới đạt hiệu quả cao.
Trên cơ sở đó, ông cùng các đồng sự đã sáng tạo nên một cách đánh riêng có của TTG Việt Nam có rất nhiều khác biệt với nước bạn và đã được kiểm nghiệm qua một số cuộc diễn tập thực binh. Cách đánh đó cũng được chứng minh là phù hợp trong các trận chiến đấu của xe tăng sau này.
Xe tăng PT-76 mang số hiệu 268 tham gia trận đánh giờ là tượng đài chiến thắng Làng Vây.
Bám sát chiến trường, kịp thời rút kinh nghiệm
Là người chỉ huy cao nhất binh chủng song ông không chịu ngồi yên ở Sở chỉ huy mà thường xuyên bám sát đơn vị cơ sở, bám sát chiến trường... để đúc rút ra các bài học kinh nghiệm cần thiết, ngõ hầu hoàn thiện cách đánh của TTG Việt Nam và phổ biến rộng rãi đến khắp binh chủng.
Đầu năm 1967, để chuẩn bị đưa xe tăng vào miền Nam tham chiến ông đã dẫn một đoàn cán bộ vào khu phi quân sự để nghiên cứu chiến trường cũng như nghiên cứu các phương án hành quân sao cho hiệu quả nhất.
Tháng 3.1968, ông trực tiếp đi cùng Đại đội 6 vào Đường 9 để bổ sung lực lượng cho Tiểu đoàn 198 và nghiên cứu chiến trường ở khu vực Khe Sanh. Tháng 12.1969, ông lại cùng Tiểu đoàn 195 sang Lào giúp bạn tác chiến ở Cánh đồng Chum.
Chính trong chuyến đi này, ngày 17.02.1970 ông đã bị thương khi bom đánh trúng Sở chỉ huy chiến dịch ở Noọng Pẹt. Bom đạn quân thù đã lấy đi của ông một con mắt và từ đó ông được các chỉ huy phía bên kia tặng cho cái hỗn danh "Hổ Chột".
Trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971 cũng như trong các chiến dịch sau này các đài kỹ thuật của ta thu được trên làn sóng vô tuyến điện bọn địch thường xuyên hỏi thăm nhau: "Hổ Chột ở đâu?". Lúc đầu cũng không ai hiểu được đó là mật danh hay mật hiệu gì.
Một thời gian sau, qua điệp báo cũng như phân tích tình hình mới hiểu đó là mật danh chỉ "tướng xe tăng" Đào Huy Vũ. Nói cho công bằng, sự "quan tâm" sâu sát như vậy của đối phương đối với ông cũng không phải là không có lý. Bởi vì lập luận của chúng là: "xe tăng đã tập trung ở đâu thì Quân giải phóng sẽ đánh lớn ở đó".
Và đúng là như vậy! Trong cuộc Tổng tiến công chiến lược 1972, Quảng Trị được chọn là hướng chủ yếu và có đến 2 Trung đoàn TTG (202 và 203) tham chiến ở đây. Cũng vì vậy, được sự đồng ý của trên, Bộ Tư lệnh TTG đã thành lập Bộ Tư lệnh tiền phương bên cạnh Bộ Tư lệnh mặt trận B5 và do ông trực tiếp chỉ huy.
Tháng 12/1971, xe tăng 390 hành quân từ Vĩnh Phúc, vượt Trường Sơn vào chiến đấu tại chiến trường Trị Thiên khốc liệt.
Cơ quan này đã tham mưu đắc lực cho Bộ Tư lệnh B5 trong sử dụng TTG, đồng thời đã trực tiếp chỉ đạo, giúp đỡ các đơn vị xử lý nhiều tình huống phức tạp nẩy sinh trong chiến đấu, trong đó có sáng kiến bí mật đưa xe tăng xuống công sự bắn để chống lại chiến thuật "Trâu rừng" của tướng Abrams.
Mùa Xuân năm 1975, ông lại một lần nữa "xuất tướng". Bộ Tư lệnh TTG tiền phương do ông lãnh đạo luôn có mặt bên cạnh BTL chiến dịch Huế- Đà Nẵng, BTL cánh quân Duyên hải và BTL cánh Đông trong chiến dịch Hồ Chí Minh.
Với sự tham mưu đắc lực của ông và các đồng sự trong Bộ Tư lệnh TTG tiền phương, việc sử dụng TTG trên hướng Quân đoàn 2 cũng như cánh quân Duyên hải và cánh quân phía Đông có hiệu quả rất cao.
Những năm cuối của cuộc đời binh nghiệp ông về Học viện Quốc phòng làm Chủ nhiệm khoa TTG với hàm thiếu tướng. Những kiến thức, kinh nghiệm của ông đã góp phần không nhỏ vào công cuộc đào tạo nên các thế hệ cán bộ lãnh đạo- chỉ huy của quân đội ta.
(Theo Thời Đại)
Tiến sỹ Úc nhận định về sức mạnh Hải quân Không quân Việt Nam và khu vực Châu Á TBD Theo Viện Nghiên cứu Chính sách chiến lược Australia (ASPI), hơn một thập kỷ qua, các quốc gia trong khu vực Châu Á-TBD tăng chi tiêu quốc phòng và gấp rút hiện đại hóa hải quân. Tiến sỹ Úc nhận định về sức mạnh Hải quân - Không quân Việt Nam và khu vực Châu Á -TBD Đó là nhận xét chung trong...