Ngân hàng xoay xở ra sao trong vòng xoáy nợ xấu?
Trong số 27 ngân hàng thương mại, có tới 8 ngân hàng lựa chọn cùng một phương án mang tính đánh đổi: “lỏng tay” hơn trong xử lý và dự phòng nợ xấu để chạy theo tăng trưởng lợi nhuận.
Ngân hàng xoay xở ra sao trong vòng xoáy nợ xấu?
Chu kỳ nợ xấu mới đang bắt đầu, gối đầu với hồi kết của chu kỳ nợ xấu cũ.
Số liệu nợ xấu 9 tháng năm 2020 đang minh chứng cho điều này khi tổng nợ xấu nội bảng của 27 ngân hàng thương mại (*) tăng tới 31%, tương đương tăng gần 25.100 tỷ; nợ tái cơ cấu theo Thông tư Thông tư 01/2020/TT-NHNN ngày càng tăng, đến ngày 28/9/2020 đã chiếm tới 3,8% tổng dư nợ toàn hệ thống. Trái ngược, tổng giá trị trái phiếu đặc biệt tại VAMC của 27 ngân hàng giảm 22%, tương đương giảm gần 23.800 tỷ (x em thêm: Thực hư chuyện nợ xấu ngân hàng tăng mạnh).
Chu kỳ nợ xấu mới kéo theo mối lo về lợi nhuận ngân hàng, bởi khi phát sinh nợ xấu, ngân hàng phải trích lập dự phòng theo quy định và nghiệp vụ này làm bào mòn lợi nhuận. Mức độ trích lập dự phòng sẽ tùy thuộc vào nhóm nợ (nợ nhóm 3, nợ nhóm 4 hoặc nợ nhóm 5) và giá trị tài sản bảo đảm của khoản nợ.
Mặc dù quy định về hạch toán nợ xấu cũng như trích lập dự phòng đã khá chặt chẽ nhưng không tránh khỏi những “lỗ hổng” giúp ngân hàng có không gian để “điều tiết” mức độ trích lập dự phòng, điển hình là việc xác định giá trị tài sản bảo đảm. Đối với một khoản nợ xấu đã xác định nhóm nợ, giá trị tài sản bảo đảm càng thấp thì mức độ trích lập dự phòng càng cao, nhờ vậy mà ngân hàng có thể “điều tiết” lượng trích lập dự phòng thông qua việc “điều tiết” giá trị tài sản bảo đảm, bởi việc xác định giá trị tài sản bảo đảm phụ thuộc không ít vào các yếu tố định tính.
Ngân hàng có thể “điều tiết” trích lập dự phòng, cũng nghĩa là có thể “điều tiết” lợi nhuận. Tuy nhiên, quy mô nợ xấu thì khó “điều tiết” hơn do quy định hiện hành khá rõ ràng và phần đông các ngân hàng đã sử dụng hệ thống phân loại nhóm nợ tự động.
Việc theo dõi sự biến động của 3 yếu tố lợi nhuận – dự phòng – nợ xấu có thể giúp hình dung được những sự “điều tiết”, xoay xở khác nhau của các ngân hàng, chẳng hạn ưu tiên tăng trưởng lợi nhuận hay xử lý nợ xấu. Tương ứng với 3 yếu tố này là 3 chỉ tiêu: biến động lợi nhuận trước thuế – biến động tỷ lệ bao phủ nợ xấu – biến động tỷ lệ nợ xấu.
Tỷ lệ bao phủ nợ xấu = số dư dự phòng/quy mô nợ xấu, được ví như chỉ tiêu phản ánh “bộ đệm” rủi ro nợ xấu. Tỷ lệ này càng cao thì mỗi đồng nợ xấu càng được dự phòng nhiều, đồng nghĩa mức độ an toàn càng cao. Ví dụ, tỷ lệ này là 50% thì mỗi đồng nợ xấu được dự phòng bởi 0,5 đồng dự phòng; tỷ lệ này là 200% thì mỗi đồng nợ xấu được dự phòng bởi 2 đồng dự phòng.
Quan sát cho thấy, trong số 27 ngân hàng thương mại trong diện thống kê, có tới 8 ngân hàng lựa chọn cùng một phương án mang tính đánh đổi: chấp nhận tăng tỷ lệ nợ xấu, giảm tỷ lệ bao phủ nợ xấu để gia tăng lợi nhuận (trong đó, nợ xấu bao gồm cả nợ xấu nội bảng và giá trị trái phiếu đặc biệt tại VAMC). Nói cách khác, các ngân hàng này “lỏng tay” hơn trong xử lý và dự phòng nợ xấu để chạy theo tăng trưởng lợi nhuận.
Các ngân hàng có xu hướng chạy theo tăng trưởng lợi nhuận này bao gồm: VietinBank, ACB, VPBank, HDBank, VIB, TPBank, OCB, ABBank. Tăng trưởng lợi nhuận trước thuế bình quân 9 tháng năm nay của 8 ngân hàng này lên đến 24% so với cùng kỳ năm ngoái, bất chấp ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19.
Lựa chọn ưu tiên tăng trưởng lợi nhuận hơn là xử lý nợ xấu không phải là lựa chọn tồi nếu như quy mô nợ xấu của ngân hàng ở mức thấp hoặc/và tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức cao, đồng nghĩa có đủ dư địa để tiếp nhận thêm nợ xấu nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát được mức độ an toàn. Nếu không có các điều kiện trên, lựa chọn này có phần mạo hiểm.
Video đang HOT
Một số ngân hàng thì thận trọng hơn khi chỉ giữ lợi nhuận đi ngang hoặc tăng nhẹ, thay vào đó, ưu tiên giảm tỷ lệ nợ xấu (như Eximbank và LienVietPostBank) hoặc tăng tỷ lệ bao phủ nợ xấu (như MB), hoặc tích cực hơn là đồng thời giảm tỷ lệ nợ xấu và tăng tỷ lệ bao phủ nợ xấu (như BIDV).
Thận trọng hơn nữa thì có Vietcombank và BacABank. Đây là 2 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp, tỷ lệ bao phủ nợ xấu rất cao, nghĩa là có nhiều dư địa để chạy theo tăng trưởng lợi nhuận mà vẫn kiểm soát tốt mức độ an toàn. Tuy nhiên, 2 ngân hàng này lại chọn cách hy sinh tăng trưởng lợi nhuận để gia tăng hơn nữa tỷ lệ bao phủ nợ xấu, nhằm tăng cường “bộ đệm” an toàn cho nợ xấu. Lựa chọn này cho phép Vietcombank và BacABank có thể nhanh chóng tái cân bằng sau khi lượng nợ xấu tái cơ cấu theo Thông tư 01 dần dần được ghi nhận vào báo cáo tài chính.
Không phải ngân hàng nào cũng có nhiều sự lựa chọn, điển hình là 4 ngân hàng Kienlongbank, NamABank, Saigonbank, VietBank. 9 tháng năm nay, không những lợi nhuận giảm mà tỷ lệ nợ xấu của 4 ngân hàng này còn tăng, thêm vào đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm. Các tín hiệu kém khả quan này phần nào phản ánh vấn đề về sức khỏe tài chính và sức mạnh cạnh tranh của 4 ngân hàng trên.
Có phần tương tự là câu chuyện ở SCB, Sacombank, PGBank. Tỷ lệ nợ xấu quá cao khiến các ngân hàng này buộc phải hy sinh lợi nhuận để mạnh tay giảm nợ xấu. Nhờ giảm mạnh quy mô nợ xấu nên tỷ lệ bao phủ nợ xấu cũng được cải thiện dù mức độ cải thiện khá khiêm tốn, tuy vậy, tỷ lệ bao phủ nợ xấu vẫn ở mức rất thấp, từ 25 – 50%, cho thấy “bộ đệm” an toàn vẫn mỏng.
Trong số 27 ngân hàng thương mại, số ít ngân hàng gồm SeABank, VietCapitalBank, MSB và Techcombank đồng loạt ghi nhận 3 tín hiệu tốt: lợi nhuận tăng, tỷ lệ nợ xấu giảm và tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng. Kết quả này càng đặc biệt hơn trong bối cảnh ngành ngân hàng đang chịu tác động tiêu cực rõ rệt của dịch Covid-19.
Về nguyên nhân, SeABank, VietCapitalBank và MSB là 3 trường hợp đã sạch nợ VAMC trong năm nay, vì vậy gánh nặng nợ xấu đã nhẹ hơn nhiều, cùng với đó, mức nền lợi nhuận thấp của năm ngoái (do phải dành nguồn lực xử lý nợ xấu VAMC) cũng tạo điều kiện ghi nhận tăng trưởng lợi nhuận cao trong năm nay.
Riêng với Techcombank, các tín hiệu tích cực trên cho thấy sức khỏe tài chính và sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng này là vượt trội so với mặt bằng chung.
(*) 27 ngân hàng thương mại bao gồm: ABBank, ACB, BacABank, BIDV, Eximbank, HDBank, Kienlongbank, LienVietPostBank, MB, MSB, NamABank, NCB, OCB, PGBank, Sacombank, Saigonbank, SCB, SeABank, SHB, Techcombank, TPBank, VIB, VietCapitalBank, VietBank, Vietcombank, VietinBank, VPBank; trong đó, riêng HDBank và VPBank là số liệu báo cáo tài chính riêng lẻ (do tỷ lệ nợ xấu hợp nhất chịu tác động lớn của công ty tài chính tiêu dùng trực thuộc), còn lại là số liệu báo cáo tài chính hợp nhất.
Ngân hàng dồn dập áp lực dự phòng cuối năm
Đến nay, hầu hết ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính quý III/2020. Một điểm dễ nhận thấy là nhiều ngân hàng đã phải tăng trích lập dự phòng khiến lợi nhuận bị ảnh hưởng. Dẫu vậy, áp lực trích lập vẫn dồn dập trong quý cuối năm.
Cả ngân hàng lớn cũng phải "căng mình" trích lập dự phòng để bao nợ xấu
Dự phòng tăng, bào mòn lợi nhuận
Chủ tịch Hội đồng quản trị Saigonbank, ông Vũ Quang Lãm cho rằng, nếu không có đại dịch Covid-19, có lẽ năm nay Saigonbank sẽ "cất cánh" về lợi nhuận. Thế nhưng, tác động của dịch bệnh buộc Ngân hàng phải tăng trích dự phòng rủi ro, trong khi tín dụng tăng chậm khiến lợi nhuận giảm mạnh.
Cụ thể, lợi nhuận quý III/2020 của Saigonbank chỉ đạt 52,2 tỷ đồng, giảm tới 60,5% so với cùng kỳ 2019. Nguồn thu chính của Saigonbank là thu nhập lãi thuần đã giảm 35,7%, mang về 135 tỷ đồng, trong khi chi phí dự phòng rủi ro tăng lên 20,9 tỷ đồng, gần gấp đôi mức 10,8 tỷ đồng của cùng kỳ. Lũy kế 9 tháng đầu năm 2020, lợi nhuận trước thuế của Saigonbank đạt 177 tỷ đồng, giảm 19,7% so với cùng kỳ 2019, nhưng vẫn vượt chỉ tiêu cả năm là 130 tỷ đồng.
Tại Vietbank, lợi nhuận trước và sau thuế quý III/2020 cũng giảm đến 52% và 54% so với cùng kỳ năm trước, chỉ còn gần 86 tỷ đồng và 66 tỷ đồng. Nguyên nhân do nợ xấu tăng, Ngân hàng phải mạnh tay trích dự phòng rủi ro.
Khi nợ xấu tăng, ngân hàng phải tăng trích lập dự phòng, bên cạnh các biện pháp giãn, hoãn nợ, miễn giảm lãi vay... cũng sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận. Theo đó, ước tính lợi nhuận toàn ngành sẽ giảm khoảng 20-25% trong năm 2020.
TS. Cấn Văn Lực
Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng của Vietbank trong kỳ tăng 65%, đạt 25 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng đầu năm 2020, dự phòng rủi ro tín dụng tăng 80% lên mức 65,92 tỷ đồng. Nhiều ngân hàng quy mô nhỏ khác cũng có lợi nhuận giảm trong quý III/2020 do dự phòng rủi ro tín dụng tăng mạnh là BAC A BANK, ABBank...
Bên cạnh những ngân hàng nhỏ, không ít ngân hàng lớn cũng trong tình cảnh phải tăng trích dự phòng để bao nợ xấu khiến lợi nhuận giảm đáng kể. Đơn cử, báo cáo tài chính quý III/2020 của Vietcombank cho biết, lợi nhuận trước thuế đạt 4.983 tỷ đồng, giảm 21% so với cùng kỳ 2019; lợi nhuận sau thuế đạt 3.996 tỷ đồng, giảm 20,9%. Nguyên nhân chính của sự sụt giảm này là những nguồn thu chính đều giảm sút, trong khi chi phí tăng lên.
Theo đó, 2 nguồn thu chính của Vietcombank là thu nhập lãi thuần và thu từ hoạt động dịch vụ lần lượt giảm 1,5% và 1,6% xuống tương ứng 8.723 tỷ đồng và 1.257 tỷ đồng. Lãi thuần từ hoạt động kinh doanh khác cũng giảm 38,9% xuống 540 tỷ đồng. Trong khi đó, chi phí hoạt động tăng 9,5% lên 4.579 tỷ đồng, chi phí dự phòng tăng còn tăng mạnh hơn, ở mức 34,7% lên 2.025 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng đầu năm, lợi nhuận của Vietcombank đạt 15.965 tỷ đồng, giảm 9,4% so với cùng kỳ 2019.
Hay tại Sacombank, lợi nhuận trước thuế quý III/2020 của ngân hàng này giảm 12,9% so với cùng kỳ 2019, đạt hơn 897 tỷ đồng. Sau khi trừ thuế, lợi nhuận còn lại là 716 tỷ đồng, giảm 7,2%. Chính việc tăng mạnh trích lập dự phòng rủi ro là lý do dẫn tới sụt giảm lợi nhuận. Cụ thể, chi phí dự phòng rủi ro trong kỳ đã lên tới hơn 1.287 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần cùng kỳ. Lũy kế 9 tháng đầu năm, khoản chi phí này ở mức 2.853 tỷ đồng, tăng 69,4%.
Bà Nguyễn Đức Thạch Diễm, Tổng giám đốc Sacombank cho hay, đó là Ngân hàng đã nỗ lực xử lý được trên 11.000 tỷ đồng nợ xấu trong 9 tháng qua, nếu không con số trích lập sẽ còn cao hơn. Trong quý cuối năm, Sacombank sẽ tiếp tục đẩy mạnh xử lý nợ xấu để hoàn nhập dự phòng rủi ro, qua đó cố gắng đạt mức lợi nhuận bằng năm 2019.
TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính - ngân hàng nhận định, lợi nhuận ngành ngân hàng sẽ giảm trong năm nay. Theo ông Lực, khi nợ xấu tăng, ngân hàng phải tăng trích lập dự phòng, bên cạnh các biện pháp giãn, hoãn nợ, miễn giảm lãi vay... cũng sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận. Theo đó, ước tính lợi nhuận toàn ngành sẽ giảm 20-25% trong năm 2020.
Kỳ vọng tín dụng tăng dần
Theo đánh giá của bà Nguyễn Đức Thạch Diễm, cầu tín dụng sẽ tăng cao trong mùa kinh doanh cao điểm cuối năm, giúp cải thiện lợi nhuận. Tại Sacombank, tăng trưởng dư nợ đang có chiều hướng tăng dần, khi mà lãi suất huy động trong xu hướng giảm nên Ngân hàng có thêm điều kiện giảm lãi suất cho vay.
"Ngoài 5 lĩnh vực ưu tiên và tùy từng phân khúc khách hàng khác nhau, nhìn chung lãi vay tại Sacombank hiện đã giảm nhiều so với trước đây. Tính đến 30/9/2020, cho vay khách hàng đạt 320.215 tỷ đồng, tăng 8,2% so với đầu năm, trong khi hạn mức được cấp là 13,5%, tức là Ngân hàng còn nhiều dư địa để cho vay quý cuối năm", bà Diễm chia sẻ thêm.
Tại VIB, cho vay khách hàng đạt gần 150.000 tỷ đồng tính đến cuối tháng 9/2020, tăng 15,3% so với đầu năm nay. Đây là mức tăng trưởng cao so với mặt bằng chung hiện nay.
VPBank cũng nằm trong nhóm có tỷ lệ tăng trưởng tín dụng cao trong 9 tháng qua, ở mức 16,5%.
Với Vietcombank, dư nợ cho vay khách hàng 9 tháng đầu năm 2020 tăng 6,7%, đạt 783.757 tỷ đồng. Còn dư nợ tín dụng của TPBank đạt trên 124.000 tỷ đồng, nằm trong giới hạn chỉ tiêu tăng trưởng được Ngân hàng Nhà nước phê duyệt.
Thông tin từ Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, sau 2 quý tăng trưởng chậm, tín dụng toàn nền kinh tế đã cải thiện dần, từ mức 4,03% của tháng 7, đã tăng lên 4,75% trong tháng 8 và đạt 6,09% trong tháng 9.
Ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc OCB nhìn nhận, nếu như giai đoạn trước đây tăng trưởng tín dụng phụ thuộc vào một số biến số chính như lãi suất, tăng trưởng kinh tế..., thì nay phụ thuộc thêm một yếu tố rất quan trọng là dịch Covid-19. Ở thời điểm này, dù có tác động nhất định, nhưng lãi suất không còn chiếm vai trò lớn đối với tăng trưởng tín dụng như trước đây, mà quan trọng hơn là việc kiểm soát dịch bệnh. Từ đó, hoạt động kinh doanh mới ổn định, tác động lên tăng trưởng tín dụng và lợi nhuận ngân hàng cũng sẽ tăng tích cực.
Về kết quả kinh doanh của OCB, ông Tùng cho biết, chí phí dự phòng của Ngân hàng tăng 49% nên lợi nhuận trước và sau thuế quý III/2020 giảm 22% so với cùng kỳ, đạt tương ứng 647 tỷ đồng và 517 tỷ đồng. Tuy nhiên, lũy kế 9 tháng đầu năm nay, OCB đạt hơn 2.511 tỷ đồng và gần 2.009 tỷ đồng lãi trước và sau thuế, tăng 29% so với cùng kỳ năm trước. Mục tiêu lợi nhuận trước thuế cả năm là 4.400 tỷ đồng.
Cùng với kỳ vọng tăng trưởng tín dụng cải thiện, các ngân hàng cho biết đang từng bước đẩy mạnh xử lý nợ xấu để tăng hoàn nhập dự phòng để cùng tác động tích cực lên lợi nhuận và hoàn tất kế hoạch lợi nhuận đề ra.
Lãnh đạo Kienlongbank cho hay, ngân hàng này sẽ hoàn tất xử lý món nợ xấu có tài sản thế chấp là cổ phiếu STB của Sacombank vào cuối năm nay. Nếu xử lý xong sẽ đóng góp đáng kể vào lợi nhuận năm 2020 của Kienlongbank đặt ra ở mức 750 tỷ đồng trước thuế. Kết thúc 9 tháng đầu năm 2020, lợi nhuận trước và sau thuế của Kienlongbank giảm 39% và 38%, xuống mức gần 145 tỷ đồng và 116 tỷ đồng, do phải tăng trích lập dự phòng rủi ro lên mức 83,2 tỷ đồng, tức tăng 96%.
Theo tính toán của SSI Research thuộc Công ty Chứng khoán SSI, lợi nhuận trước thuế trong nửa cuối năm 2020 của ngành ngân hàng ước giảm 22,1% so với cùng kỳ 2019 do thu nhập hoạt động (TOI) giảm 4% và chi phí dự phòng tăng 47,8%.
Nguyên nhân giảm còn do lợi nhuận trước thuế của các ngân hàng có vốn nhà nước chi phối (Vietcombank, BIDV và VietinBank) ước giảm 35,7% so với cùng kỳ 2019 bởi chi phí dự phòng tăng 58,8% khi các khoản nợ xấu từ hoạt động tái cơ cấu tăng.
Tuy nhiên, sang năm 2021, khi hoàn thành việc hỗ trợ khách hàng, lợi nhuận của các ngân hàng có vốn nhà nước chi phối ước tăng trở lại 23%, còn nhóm ngân hàng cổ phần tăng 11,2%.
Tăng mạnh trích lập dự phòng, lợi nhuận PGBank quý 3/2020 giảm mạnh 70% Lợi nhuận trước thuế của ngân hàng đạt 21,2 tỷ đồng, giảm 70% so với cùng kỳ năm ngoái. Ngân hàng TMCP Xăng Dầu Petrolimex (PGBank) vừa công bố BCTC hợp nhất quý 3/2020. Trong quý 3/2020, lợi nhuận trước thuế của ngân hàng đạt 21,2 tỷ đồng, giảm 70% so với cùng kỳ năm ngoái. Nguyên nhân tăng trưởng âm chủ yếu...