Ngân hàng tiếp tục hạ lãi suất huy động
Khảo sát biểu lãi suất của các ngân hàng trong tuần đầu tháng 9/2021 cho thấy lãi suất huy động tại nhiều ngân hàng tiếp tục có xu hướng điều chỉnh giảm.
Khách hàng giao dịch tại hội sở chính Vietcombank, 198 Trần Quang Khải, Hà Nội. Ảnh: Trần Việt/TTXVN
Tại các ngân hàng lớn như Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), mức lãi suất huy động cao nhất đã giảm nhẹ từ 5,6%/năm xuống còn 5,5%/năm đối với các kỳ hạn dài từ 12-36 tháng.
Với mức lãi suất hiện tại, BIDV và Agribank đang niêm yết biểu lãi suất tương đồng với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), thuộc nhóm lãi suất thấp nhất trong hệ thống. Riêng Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank), lãi suất tiết kiệm cao nhất vẫn đang giữ ở mức 5,6%/năm với khoản gửi từ 12 tháng trở lên. Lãi suất tiền gửi kỳ hạn từ 1-3 tháng ở nhóm ngân hàng này hiện ở mức từ 3,1 – 3,4%/năm; lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 6-9 tháng niêm yết là 4%/năm.
Tại các ngân hàng thương mại cổ phần, lãi suất nhiều kỳ hạn cũng được điều chỉnh giảm trung bình từ 0,2 – 0,4%/năm. Cá biệt, có ngân hàng giảm đến gần 1%/năm so với biểu lãi suất đầu tháng 8/2021. Cụ thể, Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank) đã giảm mạnh lãi suất gửi tiết kiệm kỳ hạn 18 tháng xuống còn 6%/năm, thay vì mức 6,8%/năm trước đó; lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 9 tháng cũng giảm mạnh từ 6,2%/năm xuống còn 5,7%/năm. Đối với khách hàng gửi tiết kiệm trực tuyến, TPBank áp dụng lãi suất cao nhất là 6,15%/năm, giảm tới 0,75%/năm so với hồi đầu tháng 8.
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) cũng công bố mức lãi suất tiết kiệm cao nhất giảm mạnh từ 6,1%/năm xuống còn 5,8%/năm cho kỳ hạn 36 tháng. Lãi suất tiền gửi kỳ hạn 9 tháng giảm 0,4%/năm xuống 4,5%/năm; kỳ hạn 3 tháng, 1 tháng cũng chung xu hướng, hiện còn lần lượt là 3%/năm và 2,9%/năm, giảm 0,2 – 0,3%/năm so với trước.
Video đang HOT
Số liệu thống kê mới nhất của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, mặt bằng lãi suất đang ở mức thấp nhất trong nhiều năm. Cụ thể, lãi suất tiền gửi bằng tiền đồng (VND) bình quân của các ngân hàng thương mại trong nước ở mức 0,1 – 0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; từ 3,3 – 3,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng và 4,2 – 5,7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng. Đối với tiền gửi có kỳ hạn từ trên 12 tháng đến 24 tháng, mức lãi suất bình quân các ngân hàng đang trả cho khách hàng là 5,4 – 6,8%/năm và cao nhất tới 6,1 – 6,9% đối với kỳ hạn trên 24 tháng.
Tuy vậy, vẫn có một số ngân hàng huy động với lãi suất cao nhất trên 7%/năm. Cụ thể, Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) đang trả lãi suất cao nhất khoảng 7 – 7,3%/năm cho tiền gửi tiết kiệm ở kỳ hạn 13 tháng; Ngân hàng TMCP Kỹ Thương (Techcombank) trả lãi suất cao nhất tới 7,1%/năm cho tiền gửi tiết kiệm thường trả lãi cuối kỳ ở kỳ hạn 12 tháng; Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam (MSB) với lãi suất 7%/năm, niêm yết tại kỳ hạn 12 tháng và 13 tháng. Các mức lãi suất này thường kèm theo điều kiện về số tiền gửi từ vài chục đến vài trăm tỷ đồng.
Áp lực giảm chi phí đầu vào để giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế khiến nhiều ngân hàng không thể duy trì lãi suất tiết kiệm ở mức hấp dẫn như trước. Dù vậy, lãnh đạo một ngân hàng chia sẻ, việc cho vay cũng không hề dễ dàng do ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh. Doanh nghiệp bị đứt gãy chuỗi sản xuất, tiêu thụ, dòng tiền gián đoạn không thể quay vòng vốn, khó đáp ứng đủ các yêu cầu về phương án sản xuất, dòng tiền trả nợ… để vay mới. Do đó, ngân hàng phải cùng đồng hành tư vấn tài chính, hỗ trợ tìm kiếm các đối tác cung ứng nguồn nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm để giúp khách hàng duy trì và phục hồi sản xuất.
Theo TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng của BIDV, nếu lãi suất tiền gửi quá thấp, người dân và doanh nghiệp sẽ có xu hướng đầu tư vào những kênh khác sinh lời cao hơn như bất động sản, chứng khoán, vàng, tiền kỹ thuật số… Khi đó, hệ thống ngân hàng vừa thiếu tiền gửi, vừa hứng chịu rủi ro thanh khoản, lại vừa thiếu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, tiêu dùng.
Để giúp doanh nghiệp “vượt bão” COVID-19, bên cạnh việc duy trì lãi suất cho vay ở mức thấp, Chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Trí Hiếu đề xuất, cần lập Tổ hợp tín dụng đi kèm với Quỹ Bảo lãnh tín dụng với tổng hạn mức cho vay là 300.000 tỷ đồng với sự tham gia của các ngân hàng theo tỷ lệ tham gia khoảng 3% dư nợ của mỗi ngân hàng. Thời hạn cho vay các doanh nghiệp và hộ kinh doanh là 5 năm; trong đó, 2 năm đầu vay tuần hoàn và 3 năm sau trả dần trên dư nợ vay vào cuối năm thứ 2. Điều kiện vay là tín chấp với lãi suất từ 3-5%/năm.
Ngân hàng liệu còn lãi 'khủng'?
Trong ngắn hạn, ngành ngân hàng sẽ chịu ảnh hưởng từ đợt bùng phát dịch COVID-19 thứ 4 khiến tốc độ tăng trưởng tín dụng quý III/2021 có phần chững lại.
Cùng với đó, áp lực dự phòng và các gói hỗ trợ lãi suất cho vay khiến lợi nhuận những tháng cuối của các ngân hàng được các giới phân tích dự báo không thể tăng mạnh như nửa đầu năm.
Khách hàng giao dịch tại hội sở chính Vietcombank, 198 Trần Quang Khải, Hà Nội. Ảnh minh họa: Trần Việt/TTXVN
Khi làn sóng thứ tư của dịch COVID tác động mạnh mẽ đến hầu hết các tỉnh, thành trên cả nước, đặc biệt là TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bình Dương..., nhiều doanh nghiệp đang phải đối mặt với tình trạng gián đoạn chuỗi sản xuất, đứt gãy dòng tiền, không có nguồn thu để trả nợ do dịch COVID-19. Lúc này, nợ xấu lại một lần nữa tăng nguy cơ tiềm ẩn đối với các ngân hàng.
Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lấy ý kiến dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 đã được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 03/2021/TT-NHNN ngày 2/4/2021; tuy nhiên, không đề cập đến việc giãn thời gian trích lập dự phòng rủi ro.
Quan sát kỹ hơn báo cáo tài chính quý II/2021 của các ngân hàng có thể thấy, đa phần các ngân hàng có quy mô tài sản lớn, dẫn đầu hệ thống đều tăng mạnh trích lập dự phòng và ngược lại các ngân hàng có quy mô nhỏ lại giảm mạnh trích lập dự phòng.
Các chuyên gia nhận định, đây là một yếu tố tạo nên bức tranh lợi nhuận tối, sáng thời gian qua, khi các ngân hàng có quy mô nhỏ liên tục thông báo lãi "khủng" nửa đầu năm. Tuy nhiên, bức tranh tranh này sẽ dần sáng tỏ khi việc trích lập dự phòng thường dồn vào báo cáo tài chính những quý cuối năm.
Theo số liệu quý II/2021 của các ngân hàng, hơn nửa số ngân hàng đều ghi nhận số dư nợ quá hạn tăng cao so với cuối năm 2020, đặc biệt là nợ xấu nhóm 4 và 5 (nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn). Tính đến thời điểm 30/6/2021, một số ngân hàng có quy mô nhỏ có nợ nhóm 4,5 tăng khá cao như: Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) nợ nhóm 5 tăng 29%; Ngân hàng TMCP Phát triển TP Hồ Chí Minh (HDBank) nợ nhóm 5 tăng 31%; Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank) nợ nhóm 5 tăng 40% hay Ngân hàng TMCP Nam Á (NamABank) nợ xấu nhóm 5 cũng tăng tới 100%; Ngân hàng TMCP Xăng Dầu Petrolimex (PGBank) nợ nhóm 4 tăng 100%...
Bên cạnh nguy cơ về nợ xấu, việc nhiều ngân hàng thương mại đang thực hiện hạ lãi suất cho vay để hỗ trợ khách hàng cá nhân và doanh nghiệp gặp khó khăn do dịch COVID-19 được giới phân tích cho rằng sẽ tác động đến lợi nhuận thời gian tới của các ngân hàng.
Theo ông Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) phân tích, tổng dư nợ hiện hữu của nền kinh tế vào khoảng 9,6 triệu tỷ đồng. Nếu các ngân hàng tiến hành giảm 1% lãi suất trên tổng dư nợ hiện hữu thì con số lợi nhuận ngân hàng có thể bị ảnh hưởng là khoảng 96.000 tỷ đồng, tương đương với 1 nửa lợi nhuận của toàn ngành năm ngoái. Ước tính, riêng lợi nhuận ngân hàng trong 6 tháng cuối năm nay có thể giảm hơn 40.000 tỷ đồng.
Trong khi nhiều ngân hàng lo ngại về rủi ro tín dụng gia tăng ở phía khách hàng, đồng thời cân đối giảm lãi suất cho vay theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước thì Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) tỏ ra lạc quan khi cho rằng ảnh hưởng của dịch không đồng đều. Nói cách khác, có thể có tác động "kiểu chữ K", nghĩa là các thành phần kinh tế bị ảnh hưởng với thời gian và độ mạnh yếu khác nhau. Điều này dẫn đến tình trạng cầu tín dụng vẫn ổn định ở một số vùng và ngành nghề mà nguồn lực đang được phân bổ vào. Các ngân hàng vẫn có dư địa tăng trưởng tín dụng và huy động.
Tuy nhiên, VDSC cũng nhấn mạnh, trừ khi các ngân hàng được phê duyệt mở rộng hạn mức tín dụng lần thứ ba, tăng trưởng tín dụng có khả năng rơi vào khoảng 9,5 - 10,5% so với đầu năm vào cuối quý III//2021. Hiện tại, nguồn cầu vẫn duy trì tại một số thành phần kinh tế nhưng các thủ tục giấy tờ đang bị ảnh hưởng, dẫn đến hạn chế trong giải ngân. Trong khi đó, hoạt động gửi tiền vẫn có thể thực hiện trực tuyến dễ dàng.
Cùng quan điểm với VDSC, Công ty cổ phần Chứng khoán SSI (SSI) kỳ vọng, Ngân hàng Nhà nước sẽ nới hạn mức tín dụng thêm một lần nữa vào giai đoạn cuối quý III hoặc đầu quý IV. Theo SSI, hạn mức tăng trưởng tín dụng tăng tạo điều kiện giúp các ngân hàng thương mại có thể giảm mặt bằng lãi suất cho vay.
Theo quan sát của SSI, Ngân hàng Nhà nước đã chấp thuận việc tăng hạn mức tăng trưởng tín dụng trong năm 2021 cho một số ngân hàng với mức tăng từ 2 - 6%. Với hạn mức mới, tăng trưởng tín dụng trên toàn hệ thống khoảng 11%, cao hơn mức 9% theo hạn mức lần đầu.
Dự thảo quy định mới về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi, phí Ngân hàng Nhà nước vừa có dự thảo thông tư sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch...