Ngân hàng sợ khó lấp đầy mức tối đa 30% của “room ngoại”
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước dự kiến bỏ quyền tự định đoạt tỷ lệ sở hữu cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài ( room ngoại) của các doanh nghiệp đại chúng. Điều này đặt ra không ít lo ngại cho các ngân hàng thương mại trong việc tìm kiếm đối tác chiến lược để lấp đầy khoảng trống room hiện có.
VPBank cũng quyết định giảm room cho khối ngoại từ 22,77% xuống 15%.
Ngân hàng đang “để dành” room
Hiện nay, theo quy định, room ngoại tại các ngân hàng thương mại cổ phần tối đa chỉ được 30%. Bởi đây là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, trong lĩnh vực nhạy cảm nên việc quy định room ngoại là điều cần thiết, không như một số ngành nghề thông thường khác. Do đó, thời gian qua, muốn tìm được đối tác chiến lược, nhiều ngân hàng đã có động thái cân nhắc, tự điều chỉnh room ngoại cho phù hợp với định hướng, chiến lược phát triển của mình. Tuy nhiên, hầu như chưa có ngân hàng nào đạt được mức tối đa 30% như quy định.
Mới đây, HDBank đã công bố nghị quyết về việc điều chỉnh tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài từ 30% xuống 21,5%, nhằm để dành cho kế hoạch hợp tác với các đối tác chiến lược trong thời gian tới. Thay vào đó HDBank quyết định triển khai phát hành 160 triệu USD trái phiếu chuyển đổi quốc tế và sẽ được tính vào vốn tự có cấp 2 của ngân hàng. Đặc biệt, số trái phiếu này có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông. Đây có thể là lý do HDBank quyết định giảm room ngoại, để chuẩn bị trong trường hợp trái chủ (Bondholder) muốn chuyển thành cổ đông của ngân hàng.
Tương tự, VPBank cũng quyết định giảm room cho khối ngoại từ 22,77% xuống 15%. Tỷ lệ sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài còn lại được ngân hàng này dự kiến dùng để chào bán cho nhà đầu tư khác muốn đầu tư khi thị trường tài chính thực sự quay lại ổn định, từ đó có thể có cơ hội tạo ra thặng dư vốn trực tiếp cho ngân hàng.
Hội đồng quản trị Techcombank cũng vừa chấp thuận và phê duyệt việc nâng giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng này lên mức hơn 22,5% vốn điều lệ, tăng nhẹ so với trước. Việc này là nhằm giúp người lao động nước ngoài được mua 439.000 cổ phiếu TCB của Techcombank thông qua giao dịch nhận chuyển nhượng cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường. Điều này giúp room ngoại của Techcombank khóa ở mức hơn 22,5%, thấp hơn gần 7,5% so với mức quy định.
Video đang HOT
Ngoài ra, một số ngân hàng hiện nay vẫn còn tỷ lệ room ngoại chưa đạt tối đa như VIB là 20,5%, MB là 22,99%, LienVietPostBank là 9,99%…
Theo chuyên gia tài chính – ngân hàng, TS. Nguyễn Trí Hiếu, động thái trên của các ngân hàng chỉ là “tạm khóa”, không phải khóa vĩnh viễn, bởi các ngân hàng cần cẩn trọng trong việc tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược. Thực tế là động thái tự đóng – mở room ngoại không phải không giúp ích cho các ngân hàng. Đơn cử tại BIDV, hồi cuối năm 2019, ngân hàng này đã phát hành riêng lẻ cho KEB Hana Bank (Hàn Quốc) hơn 603,3 triệu cổ phần với tổng giá trị giao dịch gần 20.300 tỷ đồng, giúp ngân hàng này vừa có được đối tác chiến lược, vừa giúp cổ phiếu được giao dịch với giá trị cao.
Tác động nhiều chiều
Theo dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều Luật Chứng khoán 2019, có thể từ năm 2021, quyền tự quyết về room ngoại của các doanh nghiệp đại chúng, trong đó có ngân hàng không còn. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho rằng, những quy định này nhằm đảm bảo tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại doanh nghiệp phù hợp với quy định về sở hữu nước ngoài tại các điều ước quốc tế và pháp luật chuyên ngành cùng với chủ trương thu hút dòng vốn nước ngoài của Chính phủ.
Trong văn bản góp ý về dự thảo Luật gửi Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nêu rõ, các quy định của pháp luật hiện nay chỉ đưa ra các tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài tối đa không vượt quá một tỷ lệ nhất định chứ không quy định tỷ lệ này là cố định, theo đó các công ty có quyền quyết định một tỷ lệ khác nằm trong tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài do pháp luật quy định cho từng ngành, lĩnh vực. Chính vì thế, theo chuyên gia kinh tế Vũ Bằng, đang có tình trạng nhiều doanh nghiệp không thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện và không phải khống chế tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài, vẫn họp Đại hội đồng cổ đông và giảm tỷ lệ room ngoại xuống; điều này khiến môi trường tuân thủ cam kết quốc tế của nước ta bị ảnh hưởng.
Tuy nhiên, với tình hình các ngân hàng như trên, room ngoại tối đa là 30%, nhiều ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc “lấp đầy” lượng room này. Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, ngân hàng là ngành kinh doanh nhạy cảm, không dễ tìm nhà đầu tư nước ngoài, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế đang chịu nhiều khủng hoảng từ đại dịch Covid-19. Thực tế cho thấy, trước đây, nhiều ngân hàng quốc tế đã đầu tư mạnh vào Việt Nam nhưng sau đó lại thoái vốn do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, đến nay, nhà đầu tư nước ngoài vào các ngân hàng trong nước chủ yếu đến từ các quốc gia trong khu vực châu Á, việc xét duyệt, quyết định đầu tư cũng mất khá nhiều thời gian.
Hiện các ngân hàng Việt Nam mới đang trong giai đoạn đầu phát triển theo chuẩn mực Basel II. Do đó, việc thu hút vốn ngoại vẫn ít nhiều khó khăn. Nói thêm về những tác động của dự thảo trên tới ngân hàng, ông Phạm Chí Quang, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (NHNN) cho rằng, bất cứ chính sách nào đều có tác động nhiều chiều đến các cơ quan liên quan, nên các ngân hàng thương mại cũng có tác động. Hiện đa số ngân hàng đã niêm yết trên thị trường chứng khoán, đây lại là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, nhạy cảm nên các quy định về room ngoại cần theo các văn bản pháp luật chuyên ngành. Do đó, NHNN đã kiến nghị bổ sung nội dung “thực hiện theo quy định tại pháp luật đó và điều lệ của công ty”, tức là vẫn giữ quyền quyết định một tỷ lệ khác nằm trong tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài.
Mở & đóng room ngoại các nhà băng
Theo dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều Luật Chứng khoán 2019, có hiệu lực từ năm 2021, vừa đưa ra lấy ý kiến, Ủy ban Chứng khoán nhà nước (UBCKNN) dự kiến bỏ quyền tự định đoạt tỷ lệ sở hữu cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) của các công ty đại chúng (CTĐC). Liên quan đến đề xuất này, TS. NGUYỄN TRÍ HIẾU, chuyên gia tài chính NH chia sẻ:
Ảnh minh họa: VIẾT CHUNG
Đây là vấn đề đang gây tranh cãi trên thị trường tài chính Việt Nam. Theo quy định hiện hành, tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại CTĐC trong doanh nghiệp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, có quy định: Nếu không phải loại doanh nghiệp (DN) đặc thù có thể cho NĐTNN đầu tư 100%; với lĩnh vực kinh doanh có điều kiện như ngân hàng (NH) áp dụng tỷ lệ tối đa 30%; CTĐC hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện mà chưa có quy định cụ thể về sở hữu nước ngoài áp dụng tỷ lệ tối đa 49%... Trong tỷ lệ được phép đó, các DN được mời NĐTNN tham dự vào công ty tùy theo nhu cầu, tình hình kinh doanh và hoạt động.
Nhưng tại dự thảo, liên quan đến quy định tỷ lệ sở hữu cổ phần cho NĐTNN, DN không được quyết định room ngoại là bao nhiêu trong tỷ lệ sở hữu nước ngoài được phép. Như vậy phải chăng Bộ Tài chính và UBCKNN muốn mở toang room cho NĐTNN? Thực tế hiện nay, các DN không thể mời gọi NĐTNN đại trà được, mà phải chọn mặt gửi vàng. Hơn nữa không phải DN nào cũng có thể chào mời được NĐTNN tham gia đủ room ngoại được phép. Vì vậy, quy định như vậy không hợp lý, sẽ gây khó khăn cho các CTĐC.
PHÓNG VIÊN: - Theo Hiệp hội NH Việt Nam, NH là ngành đặc thù, các quy định pháp luật hiện hành chỉ đưa ra tỷ lệ nắm giữ của NĐTNN tối đa không vượt qua tỷ lệ nhất định, không quy định tỷ lệ này là cố định. Các NHTM có quyền quyết định tỷ lệ trong mức room ngoại tối đa được Nhà nước quy định. Ông có đồng ý với ý kiến này?
- Tôi hoàn toàn đồng ý. Đối với ngành NH, tỷ lệ sở hữu tối đa của 1 NĐTNN chiến lược không được vượt quá 20% vốn điều lệ của 1 tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam; tổng tỷ lệ sở hữu cổ phần của tất cả NĐTNN tại 1 TCTD trong nước không được vượt quá 30%, trường hợp vượt các mức này phải được Thủ tướng quyết định. Trong phạm vi 30% đó, có rất nhiều NH giới hạn tỷ lệ sở hữu của khối ngoại ở mức 20%, có NH khống chế ở mức 10-11%... dành phần còn lại tìm NĐT phù hợp sẽ mời gọi thêm. Tôi bảo lưu ý kiến phải để NH tự quyết định ai là người tham gia và tham gia với tỷ lệ bao nhiêu và tùy theo sự thương thảo giữa 2 bên.
UBCKNN cho rằng trong quá trình thực hiện quy định cũ, một số công ty thường xuyên thay đổi room ngoại, ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông (không thể bán cổ phiếu cho NĐTNN), không bình đẳng giữa các công ty, ảnh hưởng đến tính minh bạch, thanh khoản của cổ phiếu... Như vậy, quy định tại dự thảo sẽ không để DN hay NH tự ý điều chỉnh room ngoại lúc này ở mức 10%, lúc khác ở mức 15%, mà phải sử dụng cố định room ngoại được phép.
Bây giờ, tỷ lệ sở hữu của NĐTNN tại NH tối đa 30%, họ mới sử dụng 20% còn lại 10%. Tại thời điểm này, quy định trên vẫn còn nằm trong dự thảo, NH có thể bán 10% đó. Nhưng khi dự thảo thông luật, buộc giữ nguyên room đó cho NĐTNN, nếu NH không tìm được NĐTNN nào lấp đầy room, khoảng trống 10% đó lấy gì để bù đắp, phải để trống hay sao? Hay trường hợp NĐTNN muốn thoái vốn, không có NĐTNN khác mua lại. Trong khi có NĐT trong nước muốn mua lại, như vậy họ cũng không được thoái vốn? Đây là vấn đề nhiều mâu thuẫn cần được lưu ý.
- Gần đây, một số NH thông báo khóa room ngoại thấp hơn so với mức 30%, ông bình luận gì về điều này?
- Việc NH khóa room ngoại được giải thích dành cho kế hoạch hợp tác với các đối tác chiến lược trong thời gian tới. Nhưng ở bên trong, có thể NH phải khóa room ngoại vì NĐTNN thoái vốn. Tức không phải NH không muốn NĐTNN tiếp tục hợp tác, mà do NĐTNN muốn rút khỏi Việt Nam, NH không còn cách nào khác phải giảm tỷ lệ đó xuống, nhưng các NH muốn vẽ nên bức tranh đẹp nên công bố khóa room.
Đối với các NH Việt Nam, sự hợp tác của NĐTNN đem lại nhiều lợi thế, như tiền đầu tư được đổ vào NH. Nếu họ tham gia với tư cách cổ đông lớn sở hữu từ 10% trở lên, sẽ đem theo các kỹ thuật về quản trị, quản lý vào trong NH đó. Vì vậy, NH nói khóa room, giữ lại room đó để tìm NĐTNN trong tương lai cũng là điều hợp lý. Song công bố khóa room của các NH đang tạo ra cảm tưởng họ đẩy room đó ra để giữ room này cho đối tác khác, trong khi có thể thực chất NĐTNN thoái vốn làm giảm tỷ lệ sở hữu của khối ngoại xuống.
- Nếu bị tước đoạt quyền quyết định tỷ lệ sở hữu của NĐTNN, các NH sẽ gặp khó khăn lớn trong việc lấp đầy room ngoại, thưa ông?
- Đúng vậy. NH là ngành rất nhạy cảm và rất khó tìm NĐTNN. Những năm qua, NĐTNN tham gia các NH Việt Nam phải chấp nhận lợi nhuận rất thấp, thậm chí vài năm gần đây, nhiều NH không chia cổ tức. Trước đây, các NĐTNN, cụ thể là NH nước ngoài tham gia các NH Việt Nam vì đây là thị trường tiềm năng. Với mong muốn đó, họ có thể chấp nhận mức lợi nhuận thấp để tìm được giá trị gia tăng cho đầu tư của họ trong tương lai. Ngoài ra, nhiều NH nước ngoài cũng đã có mặt trên thị trường Việt Nam, nên họ muốn tham gia các NH trong nước để tìm kiếm cơ hội bành trướng, kết nối với chi nhánh cho NH của họ.
Tuy nhiên, sau đó làn sóng NH nước ngoài thoái vốn khỏi các NH Việt Nam diễn ra ồ ạt, như Standard Chartered, HSBC, ANZ, Bank of America... Gần đây, NĐTNN tham gia NH Việt chủ yếu là các NH đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản... NĐT truyền thống phương Tây rút ra vì họ thấy NH Việt Nam không đi theo chuẩn mực của thế giới. Hiện giờ hệ thống NH Việt Nam mới bước vào giai đoạn đầu của Basel II. Thời gian qua nhiều sai phạm của cá nhân, cổ đông lớn xảy ra tại NH họ đầu tư. Yếu tố nữa là tỷ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài như quy định hiện hành chưa đủ để họ có thể góp ý kiến sâu sắc cho NH, tất cả quyết định đều là của Chủ tịch HĐQT của NH.
- Xin cảm ơn ông.
Những năm qua, nhiều nhà băng dù rất muốn nhưng khó tìm được NĐTNN tham gia. Vì vậy, nếu bắt buộc NH phải giữ room ngoại 30% cho NĐTNN, NH phải tìm đến bao giờ mới lấp đầy được.
Ngân hàng khóa room ngoại chờ cơ hội tốt Không ít kế hoạch huy động vốn ngoại tăng vốn của ngân hàng trong năm nay khó thành công, dù đã được thông qua tại đại hội đồng cổ đông thường niên 2020. Việc huy động vốn ngoại để tăng tiềm lực tài chính luôn được ngân hàng trong nước quan tâm và đặt lên hàng đầu. Nhiều thương vụ đang đàm phán...