Ngân hàng Nhà nước có thể mua cổ phần ngân hàng được kiểm soát đặc biệt?
Nội dung này có thể là một hướng gợi mở, sau một quá trình không dùng ngân sách nhà nước để tái cơ cấu và xử lý nợ xấu.
Ảnh minh họa.
Như BizLIVE đề cập ở bản tin trước, Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến hoàn thiện dự thảo thông tư quy định quy chế quản lý và sử dụng Quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Một trong những nội dung của dự thảo đề cập đến là Quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia được sử dụng để chi cho các khoản phát sinh để thực hiện chính sách tiền tệ, trong đó việc góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt.
Điểm nội dung này trở nên đáng chú ý, khi gợi mở một hướng giải pháp mới để Ngân hàng Nhà nước có thể trực tiếp tham gia thúc đẩy quá trình tái cơ cấu hệ thống.
Từ năm 2011 đến nay, khi triển khai tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, cũng như trong quá trình hoạt động, đã có một số trường hợp Ngân hàng Nhà nước mua lại bắt buộc với giá 0 đồng, cũng như đưa vào diện được kiểm soát đặc biệt.
Từ đó cho đến nay, ngân sách nhà nước không tham gia và không bố trí nguồn cho quá trình này, cũng như nguyên tắc không được sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu…
Video đang HOT
Vừa qua, Ngân hàng Nhà nước có văn bản kiến nghị Quốc hội xem xét điều chỉnh các nghị quyết trước đây, để có thể bố trí nguồn cho việc tăng vốn các ngân hàng thương mại nhà nước. Trong kiến nghị đó cũng nêu rõ không bao gồm các ngân hàng thương mại đã mua lại bắt buộc.
Với dự thảo thông tư cùng điểm nội dung trên, nếu thông qua và ban hành, ít nhất về cơ chế sẽ mở ra một hướng mới: Ngân hàng Nhà nước có thể sử dụng Quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia để góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt.
Tuy nhiên, sau khi có dự thảo trên, có ý kiến chuyên gia cho rằng, việc góp vốn, mua cổ phần như vậy thuộc chức năng của Bộ Tài chính.
Mặt khác, nguồn lực của Quỹ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia cũng có hạn, với số dư thực có không được vượt quá vốn pháp định của Ngân hàng Nhà nước, theo chế độ tài chính mà Quyết định số 07/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định.
Liên quan đến nguồn của Quỹ, cơ chế cho phép được trích 20% chênh lệch thu chi hàng năm của Ngân hàng Nhà nước để bổ sung. Nguồn này hàng năm là đáng kể, nhưng lại vướng giới hạn về quy mô vốn pháp định nói trên.
Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước gửi đến Quốc hội mới đây, dự toán thu từ chênh lệch thu – chi Ngân hàng Nhà nước năm 2020 là 7,8 nghìn tỷ đồng; năm 2019 dự toán thu từ chênh lệch thu – chi Ngân hàng Nhà nước là 4,5 nghìn tỷ đồng nhưng ước thực hiện đang là 11,8 nghìn tỷ đồng, tăng tới 162,2%.
MINH ĐỨC
Theo Bizlive.vn
Nợ xấu rình rập ngân hàng
Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính từ khi Nghị quyết 42/2017/QH14 (NQ 42) về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng có hiệu lực (ngày 15/8/2017) đến 31/8/2019, toàn hệ thống đã xử lý được 236.800 tỷ đồng nợ xấu.
Trung bình, xử lý được khoảng 9.600 tỷ đồng/tháng, cao hơn 4.700 tỷ đồng so với kết quả xử lý nợ xấu trung bình giai đoạn 2012 - 2017 trước khi NQ 42 có hiệu lực. Với kết quả này, sau hơn 2 năm NQ 42 có hiệu lực, ước tính đã xử lý được gần 52% số nợ xấu.
Khách hàng giao dịch tại Agribank chi nhánh Hà Nội. Ảnh: Thanh Hải
Vướng thuế và tranh chấp
Tuy nhiên, việc xử lý nợ xấu tồn đọng gần đây đang chững lại do gặp phải những vướng mắc khi triển khai NQ 42. Trong khi nợ xấu mới lại đang phát sinh nhanh hơn. Theo NHNN, tỷ lệ nợ xấu nội bảng ước đến cuối tháng 6/2019 là 1,91%, tăng nhẹ so với mức cuối năm 2018 là 1,89%.
Nợ xấu tăng, các ngân hàng phải trích lập dự phòng và phần trích lập dự phòng rủi ro sẽ tính vào chi phí. Trong những tháng cuối năm, lãi suất khó có khả năng giảm do yếu tố mùa vụ và áp lực cơ cấu lại nguồn vốn của các ngân hàng.
Thực tế, NQ 42 dù đã đưa ra những giải pháp đột phá, nhưng khi triển khai vào thực tiễn đang bộc lộ một số vấn đề. Theo Phó Tổng Giám đốc Agribank Phạm Toàn Vượng, Agribank có hơn 100.000 tỷ đồng nợ xấu cần xử lý theo NQ 42, trong đó có gần 7.000 vụ tranh chấp phát sinh qua tòa án dân sự. Sau 2 năm áp dụng NQ 42, đơn vị mới thực hiện hơn 10 vụ. Bên cạnh đó, ngân hàng gặp khó khăn khi phát sinh thuế trong quá trình thu hồi nợ. "Có nhiều tài sản đảm bảo Agribank đấu giá thành công, nhưng cơ quan thuế và địa phương áp dụng theo cách khác nhau, dẫn đến tình trạng những tài sản thu hồi bị kéo dài thời gian, gây thiệt hại cho người mua do không thể chuyển đổi, sang tên để tiếp tục sử dụng tài sản phục vụ sản xuất, kinh doanh"- ông Vượng cho hay.
Phó Tổng Giám đốc Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) Đỗ Giang Nam giải thích: "Khi chuyển nhượng tài sản, các chủ thể tham gia có thể chịu một số loại thuế như thuế thu nhập DN, thuế thu nhập cá nhân. Chẳng hạn, trước đây, DN hạch toán giá vốn tài sản là 100 tỷ đồng, nay bán được 200 tỷ đồng thì phát sinh thu nhập phải chịu thuế. Thực tế, DN lại đang nợ ngân hàng đến 300 tỷ đồng. Do đó, khi xử lý tài sản bảo đảm, cơ quan thuế bắt nộp thuế thu nhập nhưng thực tế DN có còn gì đâu, ngân hàng đấu giá tài sản của DN là để thu hồi nợ"- ông Nam nói. Cũng theo ông Nam, ngay cả khi Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đã có hướng dẫn cách xử lý theo NQ 42 nhưng cách hiểu và vận dụng ở các cục thuế địa phương vẫn không thống nhất.
Liên quan đến thủ tục rút gọn tại tòa án, Quyền Chánh Thanh tra cơ quan thanh tra giám sát NHNN Nguyễn Văn Du cho biết, mới ghi nhận 6 hồ sơ được tòa án thụ lý. "Bên cạnh đó, khi bên có nghĩa vụ trả nợ/chủ tài sản/bên bảo đảm không hợp tác, chống đối, rất dễ dẫn đến trường hợp cố tình tạo ra các tình tiết mới để đưa vụ án về thủ tục tố tụng thông thường, nhằm mục đích kéo dài thời gian giải quyết vụ việc"- ông Du phân tích thêm.
Nợ cũ chưa xong, nợ mới lại đến
Theo các Ngân hàng Thương mại, tuy có tới hơn 52% nợ xấu theo NQ 42 đã được xử lý trong vòng 2 năm, song 48% số nợ xấu còn lại mới là nợ khó xử lý nhất, vì những khoản nợ dễ thu hồi đã được ngân hàng xử lý trước. Số nợ xấu còn lại, là những món "xương xẩu", khó nhằn nhất. Thực tế, nhiều khối tài sản quá lớn không có người mua do tiềm lực tài chính hạn chế, nhất là khi thị trường mua bán nợ tại Việt Nam chưa hoàn chỉnh nên chưa thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài tham gia.
Trong khi nợ cũ chưa xử lý xong, nợ có vấn đề phát sinh thêm vẫn luôn rình rập các ngân hàng. Báo cáo tài chính riêng lẻ quý III/2019 của Ngân hàng MB ghi nhận nợ xấu tại thời điểm cuối kỳ tăng từ 1,22% của đầu kỳ lên 1,35% chủ yếu do nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) tăng gần 390 tỷ đồng lên 1.345 tỷ đồng. Tại Ngân hàng OCB, nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3) tăng 50% và nợ nghi ngờ (nhóm 4) tăng 152%. Do đó, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay của OCB tăng lên mức 2,62% so với mức 2,29% hồi đầu năm. Tại Techcombank, tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay khách hàng tăng từ 1,75% lên 1,80%. Một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu ở mức trên 3% bao gồm: ABBank (3,39%); VPBank (3,10%), PGBank (3,07%).
Theo Công ty CP Chứng khoán VNDirect, khác với trước đây, nợ xấu trong quá khứ của các ngân hàng đến từ các khoản cho vay với mục đích đầu cơ và các hoạt động không phải ngành kinh doanh chính (như ngân hàng, chứng khoán, bất động sản) và cho vay các khoản đầu tư không hiệu quả của DN quốc doanh. Trong khi đó, nợ xấu mới hiện tại lại đến từ các khoản đầu tư của tư nhân và vay tiêu dùng của hộ gia đình và cá nhân... Do đó, nợ xấu sẽ tăng nhiều nhất ở các ngân hàng mở rộng mạnh trong mảng bán lẻ, đặc biệt là tài chính tiêu dùng, do hoạt động này rủi ro cao và tăng chậm hơn ở ngân hàng có tiêu chuẩn cho vay khắt khe hơn và việc mở rộng cho vay bán lẻ thận trọng hơn.
Thảo Nguyên
Theo Kinhtedothi.vn
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ: Muốn xử lý nợ xấu, phải có ngân hàng đẹp "Muốn xử lý nợ xấu, phải có ngân hàng đẹp. Ngân hàng phải biết cách ứng xử đẹp, phải tuân thủ pháp luật, thượng tôn pháp luật, không có ngoại lệ nào. Ngành ngân hàng (NH) đảm bảo tỷ lệ an toàn, tăng cường bồi dưỡng và phát huy văn hoá doanh nghiệp, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ trong hệ thống...