Ngân hàng đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng từ cải cách hành chính
Quý 1/2019, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng mới đạt gần 2,4%, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2018. Để đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 14% trong năm 2019, các ngân hàng thương mại đang đẩy mạnh triển khai cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục cho vay.
Cắt giảm nhiều loại phí giao dịch
Theo Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN) Đào Minh Tú, thực hiện Nghị quyết 19 và 35 của Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính, đến nay ngành ngân hàng đã cắt giảm được hơn 100 thủ tục hành chính, đặc biệt là các thủ tục, điều kiện hành chính cho vay. Song song đó, việc cải cách, đơn giản hóa các thủ tục tín dụng cũng được ngành ngân hàng chú trọng cải tiến, giúp hoạt động cho vay đơn giản hơn. Điều này cũng tạo động lực hơn cho các ngân hàng thương mại (NHTM) cạnh tranh cho vay, tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp (DN) và người dân trong việc tiếp cận vốn vay.
TP Hồ Chí Minh được xem là điểm sáng trong việc cải cách thủ tục hành chính ngành ngân hàng. Có thể thấy, trong nhiều năm qua, NHNN chi nhánh TP Hồ Chí Minh luôn thực hiện chương trình kết nối giữa ngân hàng và DN nhằm lắng nghe, tháo gỡ những vướng mắc trong hoạt động cho vay. Do đó, các NHTM chi nhánh TP Hồ Chí Minh luôn có tăng trưởng tín dụng cao hơn so với các tỉnh thành khác trong cả nước.
Đặc biệt, việc cải cách thủ tục hành chính gắn liền với công nghệ 4.0 đã giúp mối quan hệ giữa các NHTM, DN và người dân gần gũi hơn, nhanh gọn hơn trong việc cho vay và vay vốn. Trong đó, giải pháp cho vay hay gửi tiết kiệm online đã được các ngân hàng triển khai giúp tiết kiệm thời gian cho người dân và DN.
Bên cạnh đó, các NHTM cũng cắt giảm các loại phí để giảm áp lực cho DN và người dân. Điển hình như ngân hàng BIDV, giai đoạn 2016 -2018 đã giảm, miễn phí 9 loại phí, gồm: Giảm phí chuyển t.iền; miễn phí đăng ký sử dụng các dịch vụ, phí thường niên online, smartbanking… Ngân hàng MB cắt giảm 16 loại phí, gồm ba loại phí xác nhận cam kết thanh toán, năm loại phí liên quan đến thực hiện cam kết, hai loại phí liên quan đến hoạt động cấp tín dụng… Ngân hàng Techcombank thực hiện chương trình Zero fee (miễn phí 100%) cho tất cả các khách hàng cá nhân và doanh nghiệp trong chuyển t.iền.
Đối với việc loại bỏ phí không hợp lý liên quan đến hoạt động cho vay, ngân hàng VCB đã cắt giảm các loại phí tư vấn, thu xếp, thẩm định dự án; bỏ phí duy trì hạn mức, điều chỉnh tăng hạn mức, gia hạn hạn mức; không áp dụng các loại phí quản lý tài sản đảm bảo, phí chậm rút vốn, phí hủy rút vốn, phí cơ cấu nợ, phí rút vượt số t.iền cam kết… đồng thời ngừng thu phí phát hành cam kết tín dụng cho khách hàng và phí cam kết cấp tín dụng, phát hành hợp đồng tín dụng bằng tiếng nước ngoài.
Trong khi đó, Vietinbank thì hướng tới mục tiêu tạo điều kiện tối đa cho DN tiếp cận vốn với chi phí hợp lý nhất, đồng thời tiết giảm chi phí làm cơ sở điều chỉnh giảm lãi suất cho vay…
Tạo thuận lợi để tiếp cận vốn vay
Video đang HOT
Việc tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng các thủ tục vay vốn cũng là điều kiện cần trong cải cách hành chính ngành ngân hàng. Ảnh: H.Y
Mặc dù cắt giảm nhiều thủ tục và điều kiện cho vay, nhưng tăng trưởng tín dụng của các NHTM vẫn chậm. Chuyên gia kinh tế TS Bùi Quang Tín, Đại học Ngân hàng TP Hồ Chí Minh, cho biết chính sách và cơ chế cho vay của NHNN đã có, vốn VNĐ và USD không thiếu, tuy nhiên từ chính sách đến thực thi vẫn chưa đồng bộ.
“Nguyên nhân là trên 70% tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng đến từ các DN vừa và nhỏ (DNVVN). Tuy nhiên, hiện nay các DNVVN đều thiếu hồ sơ minh bạch, tài sản thế chấp và không chứng minh được nguồn vốn trả nợ. Để tạo thuận lợi cho DN vay vốn, việc cắt giảm thủ tục hành chính chưa đủ mà các NHTM cần phải xây dựng được đội ngũ cán bộ ngân hàng có kiến thức và nhiệt huyết để hỗ trợ người dân, DN hoàn thiện hồ sơ trong phạm vi quy định của pháp luật. Không thể vì DN không đáp ứng đủ thì NHTM bỏ mặc. Ngoài ra, việc hỗ trợ lãi suất như thế nào, từng NHTM phải có chính sách riêng và cơ chế thiết thực”, TS Bùi Quang Tín chia sẻ.
Cùng quan điểm này, chuyên gia kinh tế TS Nguyễn Trí Hiếu cũng cho rằng, cải cách thủ tục hành chính không chỉ là ứng dụng công nghệ số mà còn phải phụ thuộc con người. Vì vậy, các NHTM cần có giải pháp nào thay thế khi DN thiếu tài sản thế chấp, như có thể chấp nhận thế chấp 80% khoản phải thu, hay 50% hàng tồn kho của DNVVN… Có như vậy, DN có thể mới được “cởi trói” và tiếp cận vốn vay dễ dàng hơn. Ngoài ra, NHNN cũng nên tăng cường quỹ bảo lãnh tín dụng tại các thành phố lớn, các địa phương có số lượng DN đầu tư cao. Đặc biệt, nên xây dựng thang điểm tín dụng để chấm điểm cho các DN, nếu DN nào có điểm tín dụng cao thì có thể cho vay nhanh chóng hơn.
Còn theo TS Lê Xuân Nghĩa, muốn tăng trưởng tín dụng thì phải có chính sách t.iền tệ ổn định. Vì thế, việc cải cách hành chính ngành ngân hàng vẫn lấy ổn định làm trung tâm, quan trọng nhất là kiểm soát t.iền tệ, kiểm soát lãi suất. Theo đó, việc giảm nợ xấu là việc cần làm trước tiên. Cụ thể, các NHTM cần rà soát nợ xấu tại các DN lớn, nợ xấu nào không cứu được thì cần cắt bỏ ngay, không nên cứu DN nữa.
Bàn về vấn đề này, Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú đồng tình cần tháo gỡ khó khăn cho DN và cá nhân khi vay vốn thông qua cải cách thủ tục hành chính, trong đó việc áp dụng công nghệ số khi cải cách thủ tục là cần thiết và đi đầu. Tuy nhiên, các NHTM vẫn phải cẩn trọng vì áp dụng công nghệ cũng đi kèm nhiều rủi ro, khó khăn và phức tạp khi cho vay, tránh phát sinh nợ xấu.
Về phía NHNN, ông Đào Minh Tú cho biết, sẽ tiếp tục cải cách mạnh mẽ hơn nữa các cơ chế, thể lệ, tạo điều kiện mở rộng quyền hạn và trách nhiệm cho các NHTM tổ chức tín dụng trong việc tạo thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận tín dụng và các dịch vụ ngân hàng, đồng thời vẫn phải đảm bảo an toàn vốn, hạn chế rủi ro trong hoạt động.
Hải Yên/Báo Tin tức
Vì sao hồ nước thượng nguồn không làm mát lãi suất?
Đã nửa quý 2/2019 trôi qua nhưng lãi suất huy động VND tại các ngân hàng không hạ, sau khi tăng từ cuối 2018.
Nguồn t.iền gửi vào hệ thống ngân hàng hiện nay không tăng trưởng mạnh như giai đoạn trước.
Trước thực tế trên, nhìn sang thị trường liên ngân hàng, tại một số thời điểm vẫn có câu hỏi đặt ra: vì sao nước ở hồ thượng nguồn này không chảy hẳn xuống các ruộng đồng để làm mát lãi suất?
Với góc nhìn trên, trực quan so sánh: lãi suất VND trên thị trường liên ngân hàng ổn định phổ biến chỉ trong 3 - 4%/năm, thậm chí qua đêm có những lúc chỉ hơn 2%/năm; trong khi đó lãi suất huy động VND các ngân hàng thương mại vẫn khá cao, từ 5 - 9%/năm...
So sánh đó cũng rõ hơn trong tuần này, khi lãi suất VND trên liên ngân hàng có xu hướng giảm mà Ngân hàng Nhà nước phải đẩy mạnh điều tiết qua tăng lượng phát hành tín phiếu hút t.iền về, nhưng lãi suất huy động VND vẫn chưa có dấu hiệu giảm rõ rệt.
BizLIVE tham vấn một lãnh đạo ngân hàng thương mại, góc nhìn và kỹ thuật của dòng chảy trên lại khác.
"Có thể với nhiều người, thông thường họ xem nguồn vốn và lãi suất trên thị trường liên ngân hàng là thượng nguồn. Nhưng không phải vậy. Hai kênh khá độc lập, vì có vai trò và mục đích khá độc lập. Thậm chí, nếu nói hình ảnh như trên thì nguồn vốn huy động từ dân cư và lãi suất trên thị trường giao dịch với dân cư và tổ chức kinh tế mới là thượng nguồn", vị lãnh đạo trên tư vấn.
Cụ thể, thị trường liên ngân hàng có chức năng điều hòa vốn ngắn hạn trong hệ thống, hỗ trợ thanh khoản với các kỳ hạn ngắn. Trong khi đó, thị trường giao dịch giữa ngân hàng với dân cư và tổ chức kinh tế rộng lớn hơn, còn gắn với tín dụng có cơ cấu trung dài hạn khá lớn (tỷ trọng trên 50%).
Vậy thì, không thể lạm dụng nguồn ngắn hạn để điều hòa, làm mát được nơi có tỷ trọng trung dài hạn lớn.
Thứ nữa, yếu tố nguồn qua quy mô giao dịch trên thị trường liên ngân hàng nhỏ hơn, chỉ khoảng vài trăm nghìn tỷ mang tính thời điểm, khó có thể tác động rõ nét đối với quy mô khoảng 7,4 triệu tỷ đồng tín dụng ở thị trường ngân hàng với dân cư và tổ chức, hay với hơn 8 triệu tỷ đồng nguồn vốn huy động.
"Nói một cách hình ảnh, một thùng nước nhỏ thì khó làm mát được một cỗ máy lớn đang căng guồng", vị lãnh đạo trên nói.
Qua những phân tích trên, vị lãnh đạo ngân hàng này cho rằng, góc nhìn hợp lý hơn thì cần xem thị trường giữa ngân hàng với dân cư và tổ chức kinh tế mới chính là hồ nước thượng nguồn, có khả năng điều hòa lãi suất trên liên ngân hàng.
Theo đó, nếu ngân hàng huy động tốt nguồn t.iền gửi dân cư và tổ chức, vốn khả dụng và thanh khoản tốt thì lãi suất trên liên ngân hàng khó mà dâng cao, do nhu cầu bù đắp thanh khoản hệ thống hạn chế đi.
Vấn đề chung trong câu chuyện "làm mát" lãi suất ở đây nằm ở chỗ: các ngân hàng có đang huy động tốt, thuận lợi và có tốc độ tăng trưởng cao từ nguồn dân cư và tổ chức không?
Khoảng một năm trở lại đây, tốc độ huy động vốn của hệ thống có dấu hiệu chậm hơn tăng trưởng tín dụng. Nguồn t.iền gửi vào hệ thống ngân hàng không tăng trưởng mạnh như giai đoạn trước.
Vậy điều đó có bất lợi hay tiêu cực không?
Vị lãnh đạo trên cho đây là câu hỏi khó, vì tùy thuộc vào những cấu phần trên thị trường.
Đó là, nếu nền kinh tế phục hồi và tăng trưởng tốt, các thị trường hay các kênh khác như chứng khoán, bất động sản, thậm chí tự doanh... gia tăng động lực và thu hút nguồn vốn, kênh gửi vào ngân hàng bị chia sẻ. Nếu vậy, cân đối này trở nên tích cực, vì xét theo việc gửi vào ngân hàng là một trong những cách đơn giản và "dễ" nhất; và nguồn t.iền đi theo gia tăng động lực các hoạt động trong nền kinh tế đó thì có thể giảm thiểu yếu tố và chi phí trung gian, có sức lan tỏa trực tiếp hơn tín dụng.
Nhưng nếu nhìn ở một cấu phần khác, nguồn vốn vào ngân hàng không tăng trưởng cao được như trước do các kênh khác thu hút như cho vay ngang hàng, trái phiếu doanh nghiệp, thậm chí tín dụng đen, thì vẫn còn phân vân trong các quan điểm, nhất là nhìn về khía cạnh và mức độ rủi ro so với gửi ngân hàng.
"Tóm lại, trong nền kinh tế phần lớn nguồn t.iền và dòng t.iền vẫn nằm ngoài hệ thống ngân hàng. Để thu hút, khi mà có thêm cạnh tranh từ những kênh khác, các ngân hàng thường sử dụng công cụ lãi suất. Cạnh tranh và sự chia sẻ càng lớn, lãi suất huy động ngân hàng càng khó giảm", vị lãnh đạo ngân hàng trên nói.
Mặt khác, với nội tại hệ thống ngân hàng Việt Nam, đặc thù đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn cho nền kinh tế khá lớn (tỷ trọng chiếm trên 50% tổng dư nợ), áp lực thanh khoản trong cân đối nguồn (do huy động vẫn chủ yếu nguồn ngắn hạn) cũng góp thêm yếu tố khiến lãi suất huy động khó giảm.
MINH ĐỨC
Theo bzlive.vn
Vì sao các ngân hàng đang “xài” hạn mức tín dụng quá tay? Theo định hướng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), mục tiêu tăng trưởng tín dụng toàn ngành năm 2019 ở mức khoảng 14%, tương đương năm 2018, mức thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Mục tiêu cao hơn chỉ tiêu Việc thắt chặt tăng trưởng tín dụng cũng là khuyến nghhị của các tổ chức tài chính quốc tế như...