Ngân hàng chờ “mùa vàng”
Hiện có khá nhiều ngân hàng đã đạt mục tiêu lợi nhuận cả năm từ 85 – 95%, một số nhà băng thậm chí đã về đích dù năm 2019 mới đi qua 3/4 chặng đường.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ngay sau kỳ báo cáo kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm 2019, hoạt động ngân hàng xuất hiện những tín hiệu mới về tổng thể và riêng lẻ, hứa hẹn nối tiếp một năm khả quan về lợi nhuận của ngành ngân hàng Việt Nam.
Vượt chỉ tiêu cả năm
Báo cáo kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm của các ngân hàng cho thấy phần lớn các thành viên đều có kết quả khả quan, một số thành viên thậm chí đã vượt mục tiêu lợi nhuận cho cả năm 2019.
Chẳng hạn, Saigonbank ghi nhận lợi nhuận trước thuế 220 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm, tăng trưởng 81% so với cùng kỳ năm trước. Với kết quả này, Saigonbank đã hoàn thành vượt 25,7% kế hoạch lợi nhuận cho cả năm 2019 (175 tỷ đồng).
Đáng chú ý, Saigonbank có được lợi nhuận tăng vọt nhờ sau nhiều năm hi sinh lợi nhuận để trích lập dự phòng. Hiện, tỷ lệ nợ xấu đã giảm mạnh nên khoản trích lập giảm đi (giảm tới 65,3% so với cùng kỳ), góp phần làm cho lợi nhuận của Saigonbank tăng lên.
Tương tự, Eximbank qua 9 tháng đầu năm đã đạt lợi nhuận trước thuế hơn 1.102 tỷ đồng, vượt 2,3% kế hoạch lợi nhuận năm 2019, trong đó ngân hàng đã cắt giảm mạnh tới 69% chi phí dự phòng so với cùng kỳ.
Nhiều nhà băng khác gần chạm mốc mục tiêu từ 85-94% kế hoạch lợi nhuận của cả năm như: Sacombank, VietinBank, Vietcombank, Agribank, LienVietPostBank, VietBank…
Điển hình, kết thúc 9 tháng đầu năm, Sacombank ghi nhận lợi nhuận trước thuế 2.491 tỷ đồng, tăng trưởng tới 89,5% so với cùng kỳ năm trước. Với kết quả này, Sacombank đã hoàn thành tới 94% kế hoạch lợi nhuận năm (2.650 tỷ đồng).
Theo thống kê, Sacombank là một trong những nhà băng có lợi nhuận tăng trưởng mạnh nhất hệ thống, xét tới thời điểm hiện tại.
VietinBank cũng đang tiến đến rất gần đích khi hoàn thành được 89% kế hoạch năm chỉ trong 9 tháng. Cụ thể, sau 3 quý, ngân hàng này ghi nhận lợi nhuận trước thuế 8.456 tỷ đồng, tăng trưởng 11,3% so với cùng kỳ.
Hoạt động tín dụng vẫn đóng vai trò “xương sống” khi mang về cho ngân hàng khoản lãi hơn 24,5 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng 12% so với cùng kỳ và chiếm tới 81,8% tổng thu nhập hoạt động. Ngoài ra, hoạt động dịch vụ và kinh doanh ngoại hối cũng có đóng góp đáng kể trong tổng thu nhập của nhà băng này.
Video đang HOT
Kết thúc quý III, lợi nhuận trước thuế lũy kế của LienVietPostBank ghi nhận 1.636 tỷ đồng, bằng 161% so với cùng kỳ năm 2018, hoàn thành 86% mục tiêu kế hoạch năm 2019.
Vietcombank đạt 17.600 tỷ đồng lợi nhuận hợp nhất trước thuế, tăng gần 51% so với cùng kỳ năm 2018 và đạt 85,8% kế hoạch năm.
Nhiều ngân hàng đã đạt mục tiêu lợi nhuận cả năm từ 85 – 95%
Nắm bắt cơ hội tăng lợi nhuận
Kết quả tăng trưởng tốt trong 9 tháng năm 2019 của các tổ chức tín dụng không chỉ xóa tan quan ngại về khả năng phân hóa sâu hoặc giảm tăng trưởng lợi nhuận của ngành ngân hàng do room tín dụng ở nhiều tổ chức đã gần cạn và chi phí vốn lại tăng. Dự báo mùa bội thu của các nhà băng trong niên độ tài chính 2019 đang rất gần.
Thực tế, nếu so sánh với tăng trưởng lợi nhuận với các năm trước, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận trong 9 tháng đầu năm của các ngân hàng đã có phần chậm lại.
Tuy nhiên, nhờ các biện pháp tái cơ cấu danh mục cho vay, đẩy mạnh nguồn thu từ dịch vụ, trong đó có bán bảo hiểm nhân thọ đã mang lại cho các nhà băng khoản lãi không nhỏ.
Mặt khác, sau nhiều năm hi sinh lợi nhuận để trích lập dự phòng, hiện một số ngân hàng xử lý được các khoản nợ xấu này, góp phần hoàn nhập dự phòng giúp lợi nhuận tăng trưởng tốt hơn.
Theo tiết lộ của lãnh đạo một ngân hàng thương mại, quý IV thường là quý kinh doanh sôi động nhất trong năm của các nhà băng. Do đó, nhiều ngân hàng sẽ nắm bắt cơ hội này để vượt mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận.
TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh, đánh giá lợi nhuận ngành ngân hàng dần cải thiện trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng, nhất là sau giai đoạn ngành đẩy mạnh tái cơ cấu.
Tuy nhiên, ông Thành vẫn tỏ ra lo lắng nợ xấu đang có dấu hiệu gia tăng trong quý III và sang quý IV khi các ngân hàng đẩy mạnh cho vay, rủi ro về nợ xấu tăng cao vẫn luôn rình rập. Do đó, kết quả lợi nhuận năm nay sẽ có sự phân hoá rõ rệt giữa các ngân hàng.
Theo lý giải của TS. Bùi Quang Tín, chuyên gia tài chính – ngân hàng, sự phân hóa lợi nhuận hiện nay là do mỗi nhà băng có sự chuẩn bị khác nhau từ nhiều năm trước, đặc biệt trong bối cảnh chịu sự ảnh hưởng bởi hạn mức tín dụng, tức là vẫn phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động tín dụng, bên cạnh yêu cầu đáp ứng các tiêu chí an toàn vốn của chuẩn Basel II.
Dù vậy, có một điểm tích cực dễ nhận thấy là các ngân hàng đã đa dạng hóa nguồn thu bằng cách đẩy mạnh hoạt động dịch vụ để bù lại cho tăng trưởng từ hoạt động tín dụng.
Theo Huyền Anh/thoibaokinhdoanh.vn
Ngân hàng bắt đầu "trám" lỗ hổng về vốn
Ngân hàng Nhà nước đang "đánh" vào những lỗ hổng nhạy cảm nhất của các ngân hàng thương mại, như vốn điều lệ, an toàn vốn, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay dài hạn... Việc siết lại an toàn hệ thống sẽ khiến nhiều ngân hàng tiếp tục gặp khó, nhưng đây là con đường không thể tránh.
Các dự án bất động sản sẽ khó tiếp cận vốn ngân hàng hơn trong thời gian tới. Ảnh: Đức Thanh.
Siết an toàn vốn là tất yếu
Ngân hàng Nhà nước vừa ban hành Thông tư số 22/2019/TT-NHNN quy định giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đưa ra lộ trình giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn từ 40% hiện nay xuống còn 30% vào ngày 1/10/2022, mỗi năm giảm 3 - 4%. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng tăng hệ số rủi ro kinh doanh bất động sản từ 150% lên 200%.
Thông tư trên không chỉ giáng đòn mạnh đối với thị trường bất động sản, mà các ngân hàng cũng bị ảnh hưởng không kém.
Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, Phó tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cổ phần cho hay, để giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn từ 40% hiện nay xuống 30% trong vòng gần 3 năm là rất áp lực.
Nếu không huy động đủ vốn trung, dài hạn để đảm bảo tỷ lệ trên, ngân hàng có nguy cơ phải giảm tín dụng trung, dài hạn, nhất là tín dụng bất động sản, dẫn đến sút giảm lợi nhuận.
Theo TS. Bùi Quang Tín, chuyên gia kinh tế, thực tế hiện nay, nhiều hợp đồng tín dụng được ngân hàng ký kết đã sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn, nên việc siết tỷ lệ này không thể phanh gấp.
Lộ trình điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước là phù hợp. Dù vậy, cũng theo TS. Tín, hiện trong hệ thống vẫn còn có một số ngân hàng có tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn trên 40%.
Vì vậy, các ngân hàng này buộc phải giảm cho vay ra hoặc tăng huy động vốn trung, dài hạn.
"Trong tình huống này sẽ có nhiều ngân hàng tham gia cuộc đua huy động vốn và đẩy lãi suất trên thị trường lên, khiến diễn biến thị trường lãi suất đi theo chiều hướng xấu", TS. Bùi Quang Tín cảnh báo.
Không chỉ siết tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn, mà Thông tư 22/2019/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu các ngân hàng thương mại khẩn trương áp dụng chuẩn Basel II.
Cụ thể, hiện mới có 14 ngân hàng đạt chuẩn Basel II (áp dụng Thông tư 41/2016/TT-NHNN). Thông tư 22/2019/TT-NHNN yêu cầu, chậm nhất đến ngày 1/1/2023, toàn bộ các ngân hàng phải áp dụng thông tư này, tức là trong vòng 3 năm tới, các ngân hàng phải đạt hệ số an toàn vốn (CAR) là 8%.
"Việc giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn, áp dụng chuẩn Basel II, siết lại hệ số CAR... sẽ gây nhiều khó khăn, áp lực với các ngân hàng thương mại, song là rất cần thiết. Tôi ủng hộ cách làm của Ngân hàng Nhà nước vì đây là cách duy nhất để lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng. Việc siết lại an toàn vốn có thể đẩy lãi suất lên, song chúng ta không còn con đường nào khác", TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia ngân hàng chia sẻ.
Hạch toán đúng, nhiều ngân hàng có thể đang hụt vốn điều lệ
Theo Nghị định số 86/2019/NĐ-CP vừa được Chính phủ ban hành, vốn pháp định với các ngân hàng thương mại vẫn giữ nguyên là 3.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, nếu "soi" vào Thông tư số 22/2019/TT-NHNN, từ ngày 1/1/2020, cách tính vốn pháp định ngân hàng khắt khe hơn nhiều.
Nhiều chuyên gia nhận định, cách tính vốn pháp định, vốn điều lệ của ngân hàng Việt Nam hiện nay chưa thật chuẩn xác, nợ xấu chưa được hạch toán chuẩn, thu nhập từ lãi dự thu còn mập mờ. Nếu tính một cách khắt khe theo đúng chuẩn quốc tế, thì không ít ngân hàng không đủ vốn điều lệ.
"Với ngân hàng, điều quan trọng nhất là giá trị thực của vốn điều lệ. Vốn điều lệ rất dễ bị xói mòn bởi nợ xấu. Tuy nhiên, hiện các ngân hàng thương mại hạch toán còn lỏng lẻo. Nếu hạch toán chính xác nợ xấu, lãi dự thu, thì nhiều ngân hàng có thể không đủ vốn điều lệ 3.000 tỷ đồng, hoặc có tỷ lệ an toàn vốn thấp dưới mức quy định", TS. Nguyễn Trí Hiếu nhận định.
Thông tư 22/2019/TT-NHNN đã đưa ra các nguyên tắc cụ thể để xác định giá trị thực của vốn điều lệ, vốn được cấp.
Theo đó, các ngân hàng chỉ được tính giá trị còn lại của vốn điều lệ, vốn được cấp sau khi đã trích lập đầy đủ dự phòng rủi ro, tính đầy đủ các khoản thu nhập và chi phí theo quy định để xác định kết quả kinh doanh.
Ngân hàng Nhà nước cũng yêu cầu các ngân hàng phải thường xuyên theo dõi, đánh giá lại giá trị thực của vốn điều lệ để báo cáo Ngân hàng Nhà nước. Nếu vốn điều lệ bị thiếu hụt, ngân hàng phải ngay lập tức tự triển khai phương án bù đắp.
"Cách tính giá trị thực của vốn điều lệ chặt chẽ hơn là rất cần thiết, buộc các ngân hàng phải nghiêm túc hạch toán lại nợ xấu và lãi dự thu. Hiện nay, nhiều món nợ xấu không có khả năng thu hồi, nhưng nhiều ngân hàng nhiều lần tái cơ cấu nợ, vẫn tính vào lãi dự thu để làm tăng lợi nhuận, làm đẹp sổ sách, tạo ra bức tranh không chính xác về sức khỏe tài chính của ngân hàng", TS. Hiếu nhận xét.
Đánh giá cao việc siết lại các quy định về an toàn vốn của Ngân hàng Nhà nước, song nhiều chuyên gia cũng cho rằng, ngoài việc đưa ra quy định, cơ quan thanh tra - giám sát của NHNN cũng phải mạnh mẽ hơn nữa trong việc yêu cầu nhà băng tuân thủ, bởi có như vậy mới tránh được hiện tượng vốn ảo hay lách luật để đáp ứng các quy định mới của Ngân hàng Nhà nước.
Việc siết lại tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn sẽ giảm thiểu rủi ro cho hệ thống ngân hàng, buộc ngân hàng cho vay trung, dài hạn phải có trách nhiệm hơn, cẩn trọng hơn. Về lâu dài, ngân hàng chỉ nên là kênh cấp vốn ngắn hạn cho thị trường, doanh nghiệp muốn tìm vốn trung, dài hạn thì phải huy động trên thị trường vốn.
- TS. Bùi Quang Tín, chuyên gia ngân hàng
Theo Tinnhanhchungkhoan.vn
Hiệu ứng tích cực khi lãi suất giảm Hàng loạt ngân hàng đang tiến hành giảm lãi suất cho vay ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ đặt mục tiêu cắt giảm lãi suất trong năm 2020 và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hạ trần lãi suất. Hàng loạt ngân hàng đang tiến hành giảm lãi suất cho vay. Yêu cầu giảm lãi suất mà Thủ tướng Chính phủ "đặt hàng"...