Nâng chuẩn giáo viên thì Bộ nên bớt chỉ tiêu đào tạo sư phạm để đỡ lãng phí!
Nếu những năm tới đây, Bộ không giảm chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm thì tình trạng sinh viên sư phạm ra trường sẽ càng khó khăn hơn khi tìm kiếm cơ hội việc làm.
Luật Giáo dục 2019 có hiệu lực từ ngày 01/7/2020 yêu cầu chuẩn trình độ giáo viên mầm non là cao đẳng sư phạm; giáo viên tiểu học, trung học cơ sở có bằng cử nhân sư phạm trở lên và hiện nay các địa phương đã có phương án, kế hoạch nâng chuẩn bị cho những thầy cô chưa đủ chuẩn trình độ bắt đầu từ năm 2021 này.
Việc nâng chuẩn trình độ cho những thầy cô giáo chưa đủ chuẩn là một chính sách rất nhân văn bởi giáo viên đi học sẽ không mất tiền học phí, được chi trả các chế độ lương, phụ cấp bình thường và điều quan trọng là vẫn giữ được vị trí việc làm của mình.
Điều này cũng đồng nghĩa các trường đại học sư phạm ở các địa phương trong những năm tới đây sẽ luôn luôn có những lớp nâng chuẩn giáo viên theo trình độ và số lượng tương đối nhiều.
Ảnh minh họa, nguồn: VTV.vn.
Vì thế, những trường, những khoa sư phạm mà lâu nay khó tuyển sinh thì trong những năm tới sẽ đảm bảo được nguồn tuyển và đào tạo trong nhiều năm trời.
Tuy nhiên, việc nâng chuẩn cho đội ngũ nhà giáo chưa đủ chuẩn cũng sẽ tạo ra một thách thức lớn cho sinh viên sư phạm khi ra trường. Nếu như những năm tới đây mà Bộ không giảm chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm thì tình trạng sinh viên sư phạm ra trường sẽ càng khó khăn hơn khi tìm kiếm cơ hội việc làm.
Những giáo viên nào sẽ phải bắt đầu nâng chuẩn từ năm 2021 này?
Theo Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục (Bộ Giáo dục và Đào tạo) thì số lượng giáo viên từ cấp mầm non đến trung học cơ sở chưa đạt chuẩn trình độ như sau:
“Tổng số giáo viên phải thực hiện nâng trình độ chuẩn (tính đến thời điểm chiết xuất cơ sở dữ liệu ngành giáo dục ngày 10/3/2020) là 256.492 người (công lập: 207.606 người; dân lập, tư thục: 48.886 người).
Trong đó giáo viên mầm non: 87.903 người (công lập 41.021 người, ngoài công lập 46.882 người). Giáo viên tiểu học: 116.846 người (công lập 115.010 người, ngoài công lập 1.711 người).
Giáo viên trung học cơ sở: 51.868 người (công lập 51.575 người, ngoài công lập 293 người)”. [1]
Vậy trong số lượng 256.492 giáo viên chưa đạt chuẩn theo Luật Giáo dục năm 2019 thì những thầy cô nào bắt buộc phải nâng chuẩn?
Tại Điều 2 của Nghị Định 71/2020/NĐ-CP của Chính phủ đã hướng dẫn khá cụ thể về việc nâng chuẩn giáo viên, đó là: giáo viên mầm non chưa có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm trở lên, tính từ ngày 01/7/2020 còn đủ 07 năm công tác (84 tháng) đến tuổi được nghỉ hưu theo quy định.
Đối với giáo viên tiểu học chưa có bằng cử nhân thuộc ngành đào tạo giáo viên tiểu học hoặc chưa có bằng cử nhân chuyên ngành phù hợp và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm trở lên, tính từ ngày 01/7/2020 còn đủ 08 năm công tác (96 tháng);
Đối với giáo viên có trình độ trung cấp, còn đủ 07 năm công tác (84 tháng); đối với giáo viên có trình độ cao đẳng đến tuổi được nghỉ hưu theo quy định.
Giáo viên trung học cơ sở chưa có bằng cử nhân thuộc ngành đào tạo giáo viên hoặc chưa có bằng cử nhân chuyên ngành phù hợp và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm trở lên, tính từ ngày 01/7/2020 còn đủ 07 năm công tác (84 tháng) đến tuổi được nghỉ hưu theo quy định.
Video đang HOT
Như vậy, về cơ bản thì những giáo viên từ mầm non đến trung học cơ sở chưa đủ chuẩn trình độ theo Luật Giáo dục 2019 tính đến ngày 01/7/2020 mà còn 7 năm công tác đối với hệ đào tạo cao đẳng và 8 năm đối với hệ đào tạo trung cấp thì sẽ phải thực hiện việc nâng chuẩn trình độ theo quy định.
Bộ nên giảm chỉ tiêu đào tạo sư phạm trong những năm tới đây
Từ cuối tháng 11/2020 thì chính sách hỗ trợ sinh hoạt phí giúp sinh viên sư phạm yên tâm học tập, thu hút người giỏi và nâng cao chất lượng đào tạo đã có hiệu lực.
Theo chính sách này thì ngoài việc được Nhà nước hỗ trợ 100% tiền đóng học phí, nay sinh viên sư phạm còn được hỗ trợ 3,63 triệu đồng/tháng để chi trả chi phí sinh hoạt. Điều này cũng đồng nghĩa mỗi năm Nhà nước sẽ phải hỗ trợ một khoản kinh phí rất lớn cho hàng trăm ngàn sinh viên các khóa đang theo học ở các trường sư phạm trên cả nước.
Thêm vào đó, lộ trình nâng chuẩn giáo viên chưa đủ chuẩn trình độ sẽ được triển khai từ năm 2021 này và kinh phí đào tạo được lấy từ nguồn kinh phí của ngân sách của các địa phương.
Chẳng hạn như tỉnh Nghệ An hiện nay có gần 2000 giáo viên chưa đủ chuẩn trình độ theo Luật Giáo dục năm 2019 và Ủy ban nhân dân tỉnh này cũng đã dự kiến trong năm 2021- năm đầu tiên thực hiện nâng chuẩn cho giáo viên thì nguồn kinh phí tỉnh cấp để nâng chuẩn cho giáo viên là gần 11 tỷ đồng. [2]
Các địa phương khác cũng đã có số liệu thống kê số lượng giáo viên phải thực hiện nâng chuẩn trình độ với số lượng tương đối lớn và cũng đều có kế hoạch nâng chuẩn từ năm 2021 này.
Chính vì thế, ngân sách Nhà nước chi cho sinh viên sư phạm chính quy hàng năm về học phí, sinh hoạt phí và thực hiện nâng chuẩn cho giáo viên chưa đủ chuẩn sẽ là rất lớn.
Trong khi, giáo viên chưa đủ chuẩn đi học vẫn được hưởng lương và các chế độ đãi ngộ bình thường của một viên chức ngành giáo dục thì sinh viên sư phạm ra trường sẽ còn phải lo lắng tìm kiếm việc làm.
Nhưng hiện nay tình trạng các địa phương thừa thiếu cục bộ giáo viên đang xảy ra. Có những môn, những cấp học thiếu giáo viên nhưng lại có những môn, những cấp học thừa giáo viên.
Vậy nên, nhiều ngành học nếu không được tính toán kỹ thì sinh viên ra trường rất khó tìm việc làm và thực tế hiện nay đang có rất nhiều sinh viên sư phạm ra trường nhiều năm chưa tìm được việc.
Vì thế, chúng tôi cho rằng Bộ và các địa phương cần cân nhắc, tính toán kỹ chỉ tiêu đào tạo sư phạm bắt đầu từ năm học 2021-2022 tới đây để sau khi học xong sinh việc không phải thất nghiệp.
Sinh viên ra trường thất nghiệp không chỉ lãng phí về nguồn nhân lực mà chúng ta phải chịu lãng phí kép khi phải chi tiền đào tạo cho sinh viên và nâng chuẩn cho giáo viên nhưng nhiều sinh viên sư phạm học xong lại không thể tìm được việc.
Trớ trêu ở chỗ là tại khoản 4, điều 85 Luật Giáo dục năm 2019 đã hướng dẫn như sau: “Học sinh, sinh viên sư phạm được hỗ trợ tiền đóng học phí và chi phí sinh hoạt trong toàn khóa học.
Người được hỗ trợ tiền đóng học phí và chi phí sinh hoạt sau 02 năm kể từ khi tốt nghiệp nếu không công tác trong ngành giáo dục hoặc công tác không đủ thời gian quy định thì phải bồi hoàn khoản kinh phí mà Nhà nước đã hỗ trợ. Thời hạn hoàn trả tối đa bằng thời gian đào tạo”.
Điều này cũng đồng nghĩa nếu sinh viên sư phạm ra trường mà “không công tác trong ngành giáo dục hoặc công tác không đủ thời gian quy định” thì phải trả lại kinh phí đào tạo cho Nhà nước nhưng nếu không xin được việc thì lấy đâu cơ hội “công tác trong ngành giáo dục”?
Tài liệu tham khảo?
[1] //vietnamnet.vn/vn/giao-duc/nguoi-thay/hon-40-000-giao-vien-vao-dien-neu-2-nam-lien-khong-dat-chuan-se-phai-sang-lam-viec-khac-644885.html
[2]//baonghean.vn/gan-2000-giao-vien-nghe-an-se-duoc-dao-tao-de-dat-chuan-281773.html
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Mang đạo đức nghề nghiệp nhà giáo ra xếp hạng, có thầy cô cảm thấy bị tổn thương
"Thấy thông tư mới xếp đạo đức nghề nghiệp theo hạng, mình không có hạng nào, tức là mình trở thành... không có đạo đức nghề nghiệp hay sao?"
Thầy giáo H. (đề nghị không nêu tên) ở Vũng Tàu chia sẻ: "Mình tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm, sắp về hưu rồi, khi có thông tư mới, mình không được xếp hạng nào, thuộc vào bộ phận "chuyển tiếp".
Thấy thông tư mới xếp đạo đức nghề nghiệp theo hạng, mình không có hạng nào, tức là mình trở thành... không có đạo đức nghề nghiệp hay sao?
Tôi thấy mình đang bị xúc phạm, tổn thương, khi Thông tư mới (Thông tư Số 01,02,03,04/ TT-BGDĐT - người viết) ra đời.
Không riêng mình tôi, nhiều giáo viên cùng cảnh ngộ, giáo viên hạng III cũng có cảm giác như thế.
Người trong ngành còn nhìn nhận nhau như thế, thử hỏi nhân dân, phụ huynh, học trò sẽ đánh giá như thế nào với giáo viên không có hạng hay hạng thấp, đó là điều buồn nhất mà tôi cảm nhận khi thông tư mới ra đời".
(Ảnh minh họa: VTV)
Nguồn cơn của sự... xúc phạm, tổn thương là đây?
Thông tư Số 01,02,03,04/TT-BGDĐT ngày 02/02/2021 quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục mầm non, các trường phổ thông công lập, mỗi hạng giáo viên lại có Tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp riêng .
Ví dụ trong Thông tư Số 03//TT-BGDĐT: Tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp Giáo viên trung học cơ sở hạng III:
a) Chấp hành các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của ngành và địa phương về giáo dục trung học cơ sở;
b) Thường xuyên trau dồi đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; gương mẫu trước học sinh;
c) Thương yêu, đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của học sinh; bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của học sinh; đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp;
d) Thực hiện nghiêm túc các quy định về đạo đức nhà giáo; quy định về hành vi, ứng xử và trang phục.
Tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp Giáo viên trung học cơ sở hạng II có ghi:
Ngoài các tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp của giáo viên trung học cơ sở hạng III, giáo viên trung học cơ sở hạng II phải luôn luôn gương mẫu thực hiện các quy định về đạo đức nhà giáo.
Tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở hạng I có ghi:
Ngoài các tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp của giáo viên trung học cơ sở hạng II, giáo viên trung học cơ sở hạng I phải là tấm gương mẫu mực về đạo đức nhà giáo và vận động, hỗ trợ đồng nghiệp thực hiện tốt các quy định về đạo đức nhà giáo.
Như vậy, giáo viên hạng I có đạo đức nghề nghiệp cao hơn hạng II; giáo viên hạng II có đạo đức nghề nghiệp cao hơn hạng III.
Với các Thông tư Số 01,02,04/ TT-BGDĐT đều tương tự. Việc xếp loại đạo đức nghề nghiệp giáo viên theo hạng như vậy vô hình trung làm giáo viên có hạng thấp hơn thấy bị xúc phạm khi đạo đức mình bị ... xếp thấp kém hơn.
Có cần có tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp trong xếp hạng giáo viên?
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT về việc Quy định về đạo đức nhà giáo trong đó đã quy đĩnh rõ:
Điều 4. Đạo đức nghề nghiệp.
1. Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng.
2. Tận tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị, nhà trường, của ngành.
3. Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người học; thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí.
3. Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc; thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.[1]
Mọi giáo viên phải có chuẩn chung đạo đức nghề nghiệp nói riêng và đạo đức nhà giáo nói chung, dù giáo viên đó ở hạng nào, già hay trẻ, công tác trường công hay trường tư, thành phố hay nông thôn.
Những thầy cô giáo không bục giảng, thầy giáo quân hàm xanh, những người mở lớp dạy học miễn phí cho học trò nghèo, gieo chữ nơi vùng sâu, vùng xa; họ đang sống trong trái tim của phụ huynh, học sinh; họ là những người tử tế, đang lan tỏa yêu thương đến xã hội, không được xếp hạng nào, nhưng chắc chắn đó là những người có trái tim cao cả, đạo đức tuyệt vời.
Như vậy, đạo đức nghề nghiệp nhà giáo đâu phụ thuộc vào hạng giáo viên, phân hạng Tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp rõ ràng không cần thiết, chỉ gây tổn thương, bất tiện cho nhà giáo.
Nên chăng, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần bỏ các quy định chia hạng Tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp trong các Thông tư Số 01,02,03,04/ TT-BGDĐT .
Tài liệu tham khảo:
- Thông tư Số 01,02,03,04/ TT-BGDĐT
[1]http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?_page=59&mode=detail&document_id=63657
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Hầu hết giáo viên đều có thể phấn đấu lên hạng II mới, đâu chỉ ban giám hiệu Tiêu chuẩn của giáo viên hạng II từ tiểu học trở lên được xếp lương có hệ số 4,0 đến 6,38 sẽ không quá khó, hầu hết giáo viên đều có thể đạt được. Sau khi chùm Thông tư 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT ban hành và sắp có hiệu lực thì có rất nhiều sự quan tâm của giáo viên việc chuyển xếp...