Nâng cao hiệu quả quản lý phát triển kinh tế – xã hội nông thôn nước ta trong điều kiện mới
Với khoảng 70% số dân sống và sản xuất ở khu vực nông thôn, vấn đề quản lý phát triển kinh tế – xã hội nông thôn nước ta đóng vai trò vô cùng quan trọng, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm góp phần thúc đẩy thắng lợi công cuộc xây dựng nông thôn mới, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
Sau hơn 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta dần thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn – Nguồn: kinhtedothi.vn
Bối cảnh mới tác động tới quản lý phát triển kinh tế – xã hội nông thôn
Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa X, ngày 05-8-2008, về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, công cuộc xây dựng nông thôn mới hướng tới và thể hiện yêu cầu phát triển kinh tế gắn liền với yêu cầu phát triển xã hội, đòi hỏi các chính sách phát triển kinh tế cần hài hòa với chính sách quản lý xã hội, phù hợp điều kiện đặc thù của các vùng nông thôn.
Có thể thấy, sau hơn 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta dần thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới. Trình độ khoa học – công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản từng bước được nâng lên; hình thành các vùng sản xuất hàng hóa trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng vùng; tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất hàng hóa, hướng về xuất khẩu. Nền nông nghiệp nước ta vượt qua nhiều khó khăn để đạt mức tăng trưởng khá nhanh và ổn định trong một thời gian dài, cơ cấu nông nghiệp có chuyển dịch theo hướng tích cực. Cả giai đoạn 2011 – 2015, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản 5 năm đạt 140,6 tỷ USD, bình quân tăng 9%/năm. So với năm 2010, tổng kim ngạch đã tăng từ 19,5 tỷ USD lên 30,38 tỷ USD năm 2014 và 30,14 tỷ USD năm 2015 (tăng 54,6%). Năm 2018, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt mức tăng trưởng cao nhất trong giai đoạn 2012 – 2018 (3,76%), đóng góp 8,7% vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế; xuất khẩu đạt kỷ lục là 40 tỷ USD, khẳng định vị thế cường quốc về xuất khẩu nông sản trên thế giới (đứng thứ 15 và đã xuất sang thị trường hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới). Phong trào toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới được người dân trên cả nước tích cực tham gia hưởng ứng, đóng góp nhiều trí tuệ, công sức vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội ở nông thôn, đóng góp hàng trăm tỷ đồng, hàng triệu ngày công, hiến nhiều diện tích đất để làm mới, sửa chữa và nâng cấp đường giao thông liên thôn, các công trình kết cấu hạ tầng nông thôn điện, đường, trường, trạm, thủy nông nội đồng…; chỉnh trang, xây mới nhà cửa… Nhiều thôn, làng trên toàn quốc đã xây dựng hoàn chỉnh hệ thống giao thông nông thôn, thủy lợi, trạm bơm và nhà văn hóa… tạo nên một diện mạo mới cho các làng quê. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện.
Tuy nhiên, có thể thấy những thành tựu đạt được của nông nghiệp, nông thôn nước ta thời gian qua chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học – công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, vẫn chủ yếu là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp.
Hiện nay, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã và đang tạo ra những cơ hội cho nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Các thành tựu mới của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được ứng dụng để tối ưu hóa quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng và quản lý, quản trị… của các ngành, lĩnh vực nói chung và với ngành nông nghiệp nói riêng, khiến cho tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông ngày càng mất dần lợi thế; sản xuất chuyển dịch dần sang những nước phát triển, nhiều lao động có kỹ năng và chuyên môn cao. Kinh tế thế giới bước vào giai đoạn kinh tế số với sự tăng trưởng chủ yếu dựa vào động lực công nghệ và đổi mới sáng tạo, thay cho tăng trưởng chủ yếu dựa vào các yếu tố đầu vào truyền thống. Đây là một thách thức rất lớn với Việt Nam khi trình độ khoa học – công nghệ nước ta nhìn chung chưa cao, nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn. Nếu không có giải pháp tổng thể nâng cao kỹ năng của người lao động, các quốc gia đang phát triển như Việt Nam sẽ đối mặt với tình trạng dư thừa lao động và thất nghiệp, nhất là ở khu vực nông thôn khi trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Bên cạnh vấn đề bảo tồn hệ sinh thái và môi trường, sự bất bình đẳng, tệ nạn xã hội ở cả nước nói chung và nông thôn nói riêng sẽ là vấn đề xã hội lớn mà nước ta phải đối mặt trong quá trình hội nhập.
Đối với ngành nông nghiệp nước ta, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, trước những cơ hội và thách thức mới, cơ chế sản xuất nông nghiệp với quy mô nhỏ, manh mún, thiếu liên kết ngày càng bộc lộ nhiều bất cập; tình trạng được mùa mất giá, được giá mất mùa thường xuyên xảy ra; một số sản phẩm nông nghiệp tăng về sản lượng nhưng lại không tăng giá trị (thậm chí giảm đi), đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến thu nhập và đời sống của người nông dân. Làn sóng đổi mới công nghệ song hành với hội nhập và tự do hóa thương mại toàn cầu sẽ tạo sức ép cạnh tranh rất lớn đối với các doanh nghiệp nước ta, trong đó có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi thiếu tầm nhìn dài hạn, nguồn lực tài chính, thông tin và nguồn nhân lực kỹ năng cao để có thể tiến hành đổi mới công nghệ; buộc các doanh nghiệp phải rà soát lại mô hình kinh doanh; cải thiện phương thức cung cấp sản phẩm, dịch vụ; không ngừng đổi mới sáng tạo để thích ứng với các thay đổi liên tục của thị trường. Vì vậy, việc thực hiện hiệu quả Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” (được phê duyệt tại Quyết định số 899/QĐ-TTg, ngày 10-6-2013, của Thủ tướng Chính phủ) đang là yêu cầu cấp bách được đặt ra hiện nay đối với ngành nông nghiệp nước ta. Đây là cơ sở quan trọng để thực hiện cơ cấu, tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với thực tiễn, mở ra hướng phát triển của ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn, ứng dụng công nghệ cao và liên kết theo chuỗi giá trị của sản phẩm, đưa ngành nông nghiệp nước ta phát triển toàn diện, hiện đại; nông sản có năng lực cạnh tranh cao, quy mô hàng hóa lớn, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu, từ đó nâng cao thu nhập, đời sống của nhân dân.
Video đang HOT
Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020, cũng đề ra mục tiêu xây dựng nông thôn nước ta trở nên văn minh, tiên tiến hiện đại nhưng vẫn mang đậm bản sắc văn hóa và nét đẹp truyền thống của nông thôn Việt Nam, coi việc giữ gìn những giá trị văn hóa cũng là một nội dung quan trọng trong xây dựng nông thôn mới, nhằm xây dựng một đời sống văn hóa tinh thần tốt đẹp ở các vùng nông thôn. Mục tiêu, nhiệm vụ này xuất phát từ yêu cầu thực tế hiện nay khi bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc ta, nhất là các giá trị văn hóa làng xã được lưu giữ ở các làng quê Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức to lớn trước tác động của kinh tế thị trường cùng với quá trình hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa văn hóa được tiếp sức bởi mạng xã hội, in-tơ-nét, di chuyển lao động, di cư xuyên biên giới, du học, truyền giáo… Mặt trái của kinh tế thị trường, của quá trình công nghiệp hóa nông thôn và quá trình toán cầu hóa đã có những tác động không nhỏ tới văn hóa làng xã, tới từng gia đình ở nông thôn Việt Nam, nhiều giá trị văn hóa truyền thống bị mai một, tình làng nghĩa xóm phai nhạt, hương ước làng xã bị xem nhẹ, xuất hiện hiện tượng lai căng và phản văn hóa,… Nhận thức của một bộ phận cán bộ và người dân về xây dựng nông thôn mới, phát triển văn hóa nông thôn vẫn chưa đầy đủ, còn tâm lý thụ động, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, vai trò chủ thể của người nông dân chưa thực sự được phát huy. Nhiều công trình được xây dựng lãng phí, chạy theo phong trào, khai thác không hiệu quả. Từ đó dẫn đến tình trạng chất lượng công nhận và giữ vững các mô hình văn hóa thiếu bền vững, không thực chất. Nhiều gia đình đạt chuẩn văn hóa nhưng vẫn còn nạn bạo hành gia đình, các tệ nạn xã hội như nghiện ma túy, đánh bạc, gây mất trật tự an ninh vẫn còn xảy ra. Tất cả những vấn đề trên ở khu vực nông thôn nước ta đang đặt ra yêu cầu cần có chính sách quản lý phát triển kinh tế – xã hội nông thôn một cách đúng đắn và phù hợp thực tiễn.
Nâng cao hiệu quả quản lý phát triển kinh tế – xã hội nông thôn
Thứ nhất, đổi mới và hoàn thiện chính sách đối với nông dân nhằm phát huy dân chủ, mọi tiềm năng và vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng nông thôn mới. Giải quyết tốt những bức xúc trong nhân dân trong quá trình công nghiệp hóa nông thôn, bảo đảm lợi ích cho người nông dân. Tạo điều kiện để nhân dân tham gia bàn bạc, đóng góp ý kiến và tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội trong quá trình xây dựng nông thôn mới, đồng thời phát huy vai trò tự quản của cộng đồng trong việc tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội ở địa phương.
Thứ hai, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn. Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Tăng cường hiệu lực quản lý điều hành của chính quyền cơ sở. Nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị – xã hội trên địa bàn nông thôn. Củng cố tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội ở nông thôn, nhất là Hội Nông dân. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức địa phương. Khuyến khích, thu hút cán bộ trẻ đã được đào tạo, đủ tiêu chuẩn về công tác ở các xã, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Phát huy vai trò của chính quyền cấp xã trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch về phát triển xã hội; ban hành các cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp để có thể thực hiện tốt công tác quản lý phát triển xã hội ở khu vực nông thôn; tổ chức thực hiện tốt các quy định của pháp luật về quản lý phát triển xã hội, thường xuyên thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và kịp thời xử lý các vi phạm đối với các vấn đề xã hội.
Thứ ba, đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, tích cực thực hiện Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”. Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng. Xây dựng nền nông nghiệp sinh thái phát triển toàn diện cả về nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết chuỗi giá trị, mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học – công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp. Có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất, thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp; từng bước hình thành các tổ hợp nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ công nghệ cao.
Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn. Phát triển kinh tế hộ, trang trại, hợp tác xã; phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn; xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết kinh tế giữa các loại hình kinh tế ở nông thôn. Triển khai các dự án xanh ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất (cho vay vốn mua thiết bị máy móc nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp, cho vay trồng rừng…).
Thứ tư, rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện thể chế phù hợp với những mục tiêu tăng trưởng xanh trong ngành nông nghiệp, xây dựng các giải pháp cụ thể hơn nhằm thúc đẩy các sản phẩm ngân hàng – tín dụng xanh, hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện tăng trưởng xanh, góp phần thực hiện Quyết định số 403/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 20-3-2014, Phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 – 2020; thực hiện các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn, chiến lược phát triển kinh tế xanh. Tăng cường các cơ chế, chính sách hỗ trợ nông dân về khoa học – kỹ thuật, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, về thông tin thị trường và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Hoàn thiện và sửa đổi các quy định của pháp luật liên quan tới tín dụng nông nghiệp, nông thôn; phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp, khuyến khích các tổ chức bảo hiểm tham gia lĩnh vực nông nghiệp nhiều hơn, giúp người nông dân yên tâm đầu tư sản xuất ổn định và lâu dài; có các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm như giảm thuế, cấp bù lỗ và bảo hiểm lãi suất cho vay nông nghiệp đối với một số sản phẩm, hỗ trợ mua bảo hiểm rủi ro cho nông dân…
Thứ năm, tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới gắn với tích cực chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động nông thôn theo hướng hợp lý. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở nông thôn, nhất là đào tạo nghề cho nông dân, nâng cao dân trí trên địa bàn nông thôn cả nước. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần được gắn kết chặt chẽ với nhu cầu thực tế, góp phần giải quyết việc làm, cải thiện thu nhập, trong đó chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng. Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm. Nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp; điều chỉnh chính sách dạy nghề, gắn đào tạo với sử dụng. Điều chỉnh chính sách xuất khẩu lao động hợp lý. Hoàn thiện và thực hiện chính sách bảo hộ lao động. Tích cực đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kiến thức cho nông dân, nhất là những tiến bộ khoa học – kỹ thuật để người nông dân có thể tự mình sản xuất, kinh doanh trên chính quê hương mình, “ly nông bất ly hương”.
Thứ sáu, tiếp tục tổ chức và nâng cao chất lượng các phong trào thi đua, học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; “phong trào sản xuất kinh doanh giỏi”, “chung sức xây dựng nông thôn mới” với các hình thức hiệu quả. Đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, với chất lượng cao hơn, toàn diện hơn, thu hút được đông đảo nhân dân tham gia hơn. Xây dựng môi trường văn hóa, đội ngũ cán bộ văn hóa cơ sở, thực hiện dân chủ hóa đời sống tinh thần ở nông thôn. Duy trì thường xuyên các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục – thể thao; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa thể hiện ở những lễ hội, phong tục, tập quán, lối sống, quan hệ ứng xử giữa con người với con người, cách tư duy, hoạt động văn hóa – nghệ thuật…; qua đó, củng cố thêm khối đoàn kết toàn dân, tình nghĩa xóm làng, tạo cơ sở cho việc người dân giúp đỡ nhau trong phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng xóm, làng văn hóa, phát triển phù hợp với thời kỳ mới./.
Theo TCDCS
Hàng nông sản xuất khẩu đối mặt với 5 thách thức
Nông nghiệp Việt Nam vẫn sản xuất nhỏ, phân tán, trong khi, nhiều thị trường lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc... đều gia tăng bảo hộ hàng hóa thuộc lĩnh vực này, khiến hàng nông sản xuất khẩu nước ta đang phải đối diện với 5 thách thức.
Diễn đàn "Thúc đẩy sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản Việt Nam năm 2019" diễn ra sáng ngày 5/3 tại Hà Nội. Ảnh: H.V
5 thách thức lớn
Trong năm 2018, ngành Nông nghiệp đã vượt qua nhiều khó khăn, hoàn thành các chỉ tiêu đề ra, đạt tốc độ tăng trưởng GDP 3,76%, giá trị sản xuất toàn ngành tăng 3,86%, kim ngạch xuất khẩu đạt mức kỷ lục 40,02 tỷ USD...
Tuy nhiên, nhìn nhận về "bức tranh" xuất khẩu nông sản năm 2019, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường thừa nhận, ngành Nông nghiệp đang phải đối mặt với 5 thách thức lớn.
Cụ thể, nông nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu về sản xuất hàng hóa quy mô lớn và tiêu chuẩn cao từ thị trường quốc tế; tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, môi trường, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất trong nước và tình hình cung cầu nông sản; đầu ra gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế thế giới 2019 và cạnh tranh gay gắt trong xuất khẩu; các nước nhập khẩu nông sản lớn của Việt Nam đều gia tăng bảo hộ hàng hóa nông sản thông qua các tiêu chuẩn khắt khe; xung đột thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc và những bất ổn xung quanh vấn đề Brexit cũng ảnh hưởng tới việc xuất khẩu nông sản Việt Nam.
Bên cạnh đó, "tình hình dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi luôn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát, nhất là nguy cơ xâm nhập dịch tả lợn châu Phi vào Việt Nam. Giá các mặt hàng cây công nghiệp sụt giảm mạnh, ảnh hưởng tới nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực có lợi thế so sánh trong nước...", ông Nguyễn Quốc Toản, Quyền Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản cho hay.
Làm thế nào để bứt phá?
Năm 2019 là năm hoàn thành Kế hoạch 5 năm 2016 - 2020; Đảng, Quốc hội và Chính phủ giao chỉ tiêu phát triển ngành Nông nghiệp đều cao hơn năm 2018 như: Tốc độ tăng trưởng GDP trên 3,0%, giá trị sản xuất trên 3,11%; kim ngạch xuất khẩu đạt 43 tỷ USD...
Để đạt được mục tiêu đề ra, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho biết: "Bộ sẽ tiếp tục triển khai mạnh mẽ cơ cấu lại ngành Nông nghiệp, phát triển cơ cấu sản xuất theo 3 trục: Sản phẩm chủ lực quốc gia, sản phẩm chủ lực cấp tỉnh và nhóm sản phẩm là đặc sản địa phương gắn với chỉ dẫn địa lý".
Xuất khẩu nông sản đối diện với nhiều khó khăn. Ảnh: TTXVN
Đồng thời, Bộ sẽ tiếp tục đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, xây dựng các vùng nguyên liệu sản xuất tập trung, đẩy mạnh liên kết phát triển tổ hợp tác; thu hút đầu tư doanh nghiệp tư nhân, xây dựng các mô hình phát triển theo chuỗi... để thúc đẩy tiêu thụ trong nước, nâng cao năng lực chế biến nông sản, bảo quản, đóng gói, bao bì, nhãn mác để nâng cao giá trị sản phẩm.
Ngoài ra, theo ông Nguyễn Quốc Toản, để tăng cường xuất khẩu nông sản, ngành Nông nghiệp cần tăng cường các biện pháp tháo gỡ những rào cản kỹ thuật và rào cản thương mại của các nước, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa nông sản của Việt Nam thâm nhập và đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, giới thiệu và quảng bá các sản phẩm thế mạnh ra thị trường thế giới...
Ở góc độ quản lý, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường yêu cầu các cơ quan liên quan xử lý nghiêm các hành vi gian lận, ảnh hưởng đến chất lượng hàng hóa nông sản xuất khẩu, nhằm giữ uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế".
Theo H.V / Báo Tin tức
Lấy di sản văn hóa làm động lực để phát triển thịnh vượng Nhân dịp Xuân Kỷ Hợi 2019, Báo điện tử Chính phủ đã có bài phỏng vấn ông Phan Ngọc Thọ, Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế về những mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm năm 2019 để hoàn thành các chỉ tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần XV và Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hôi giai...