Năm 2021, cả nước có hơn 1,4 triệu người thất nghiệp do dịch COVID-19
Tính chung cả năm 2021, do diễn biến phức tạp và kéo dài của đợt dịch COVID-19 lần thứ tư đã khiến tình hình lao động việc làm năm 2021 gặp nhiều khó khăn hơn so với năm 2020.
Người lao động đến làm thủ tục trợ cấp thất nghiệp tại Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Lạng Sơn. Ảnh minh họa: Anh Tuấn/TTXVN
Lực lượng lao động, số người có việc làm giảm; tỷ lệ thiếu việc làm và thất nghiệp tăng so với năm trước. Cả nước có hơn 1,4 triệu người thất nghiệp.
Đó là nội dung chính của cuộc họp báo công bố tình hình lao động việc làm quý IV năm 2021 và chỉ số phát triển con người Việt Nam 2016-2020 do Tổng cục Thống kê tổ chức ngày 6/1, tại Hà Nội.
Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Trung Tiến, cùng với chính sách thích ứng linh hoạt trong phòng chống dịch để khôi phục kinh tế, thị trường lao động quý IV bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. Lực lượng lao động, số người có việc làm quý IV năm 2021 tăng so với quý trước và giảm so với cùng kỳ năm trước.
Lực lượng lao động từ 15 t.uổi trở lên trong quý IV năm 2021 là 50,7 triệu người, tăng khoảng 1,7 triệu người so với quý trước và giảm 1,4 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý IV năm 2021 là 67,7%, tăng 2,1 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 2,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khu vực thành thị là 65,3%, trong khi đó tỷ lệ này ở nông thôn là 69,3%.
Video đang HOT
So với quý III năm 2021, số lao động có việc làm phi chính thức là 19,4 triệu người, tăng 1,3 triệu người, tương ứng tăng 7,4%. “Rõ ràng, thị trường lao động có sự phục hồi nhưng sự phục hồi này chưa thật bền vững”, Phó Tổng cục trưởng Nguyễn Trung Tiến cho hay.
Như vậy, cả năm 2021, lực lượng lao động từ 15 t.uổi trở lên đạt 50,5 triệu người, giảm 791,6 nghìn người so với năm trước. Lực lượng lao động ở khu vực thành thị là 18,6 triệu người, chiếm 36,8%; lực lượng lao động nữ đạt 23,5 triệu người, chiếm 46,5% lực lượng lao động của cả nước.
Số người thiếu việc làm trong độ t.uổi quý IV năm 2021 là gần 1,5 triệu người, giảm 381,1 nghìn người so với quý trước và tăng 635,9 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Số người thất nghiệp trong độ t.uổi lao động quý IV năm 2021 là hơn 1,6 triệu người, giảm 113,1 nghìn người so với quý trước và tăng 369,2 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Số người thất nghiệp năm 2021 là hơn 1,4 triệu người, tăng 203,7 nghìn người so với năm trước.
Tổng cục Thống kê cho biết, thu nhập bình quân tháng của người lao động trong quý IV/2021 là 5,3 triệu đồng, tăng 139.000 đồng so với quý trước và giảm 624.000 đồng so với cùng kỳ năm trước. Thu nhập bình quân tháng của lao động nam cao gấp 1,4 lần thu nhập bình quân của lao động nữ (6,2 triệu đồng so với 4,4 triệu đồng); thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị cao hơn lao động ở khu vực nông thôn 1,3 lần (6,3 triệu đồng so với 4,8 triệu đồng).
Tính chung, năm 2021 thu nhập bình quân tháng của người lao động là 5,7 triệu đồng, giảm 32.000 đồng so với năm 2020. Thu nhập bình quân tháng của lao động nam là 6,6 triệu đồng, cao hơn 1,4 lần của lao động nữ (4,7 triệu đồng). Thu nhập bình quân của lao động khu vực thành thị là 7 triệu đồng, cao hơn 1,4 lần mức thu nhập bình quân lao động khu vực nông thôn (5 triệu đồng).
Thu nhập bình quân tháng của lao động làm công ăn lương năm 2021 là 6,6 triệu đồng, giảm 45 nghìn đồng so với năm 2020. Lao động nam có mức thu nhập bình quân cao hơn 1,15 lần mức thu nhập bình quân của lao động nữ (7 triệu đồng so với 6 triệu đồng); lao động khu vực thành thị có thu nhập bình quân cao hơn 1,23 lần lao động khu vực nông thôn (7,3 triệu đồng so với 5,9 triệu đồng).
Chỉ số phát triển con người của Việt Nam tiếp tục cải thiện
Tại cuộc họp báo công bố tình hình lao động việc làm quý IV năm 2021 và chỉ số phát triển con người Việt Nam 2016-2020 do Tổng cục Thống kê tổ chức ngày 6/1, tại Hà Nội, bà Nguyễn Thị Thanh Mai, Vụ Phó Vụ thống kê dân số và lao động, Tổng cục Thống kê cho biết, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tiếp tục cải thiện trong giai đoạn 2016-2020.
Quang cảnh buổi họp báo. Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN
Cụ thể, HDI năm 2016 đạt mức 0,682 và tăng lên 0,706 năm 2020 tức là từ nhóm trung bình lên nhóm có HDI cao của thế giới. Các chỉ số thành phần cũng có bước cải thiện đáng kể, đơn cử như chỉ số sức khỏe tăng từ 0,822 năm 2016 lên 0,826 năm 2020. Chỉ số giáo dục tăng tương ứng từ 0,618 lên 0,640 và chỉ số thu nhập tăng tương ứng từ 0,624 lên 0,664.
"Nhìn chung, HDI Việt Nam có tăng nhưng vẫn tăng chậm và hiện xếp thứ 7/11 quốc gia khu vực Đông Nam Á", bà Nguyễn Thị Thanh Mai cho biết.
Tổng cục Thống kê cũng chỉ ra, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều đạt được HDI năm 2020 cao hơn năm 2016. Năm 2020, tuy không địa phương nào có HDI được xếp vào nhóm 1 là nhóm đạt mức rất cao, nhưng cũng không có địa phương thuộc nhóm 4, là nhóm thấp nhất theo tiêu chuẩn phân chia nhóm của UNDP.
Các địa phương đều thuộc nhóm 3 là nhóm có HDI ở mức trung bình và nhóm 2 là nhóm có HDI đạt mức cao. Đáng chú ý là, nhóm đạt mức cao đã tăng từ 13 địa phương năm 2016 lên 14 địa phương năm 2017; từ 18 địa phương năm 2018 tăng lên 21 địa phương năm 2019 và 24 địa phương năm 2020.
Một kết quả khác là nhiều địa phương có HDI thấp nhưng đạt tốc độ tăng nhanh hơn địa phương có HDI cao; khoảng cách chênh lệch HDI giữa các địa phương thu hẹp dần.
Năm 2020, HDI bình quân của 10 địa phương đạt mức cao nhất là 0,773, tăng 2,71% so với năm 2016. Trong khi đó, HDI của 10 địa phương có mức thấp nhất là 0,626, tăng 5,02%; gấp 1,85 lần tốc độ tăng bình quân của 10 địa phương đạt mức cao nhất. Do vậy, mức chênh lệch HDI bình quân của 10 địa phương đạt cao nhất so với 10 địa phương có mức thấp nhất đã giảm từ 26,38% năm 2016 xuống còn 23,61% năm 2020.
Lực lượng lao động từ 15 t.uổi trở lên quý IV năm 2021 là 50,7 triệu người, tăng 1,7 triệu người so với quý trước và giảm 1,4 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN
Trên cơ sở phân tích động thái và thực trạng HDI của cả nước và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tổng cục Thống kê đã đề xuất một số kiến nghị. Cụ thể, HDI là thước đo tổng hợp, đ.ánh giá toàn diện kết quả phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do vậy, HDI phải là một trong những chỉ tiêu chủ yếu trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như của từng địa phương.
Cùng với đó, dựa trên kết quả tính HDI, Chính phủ xây dựng một hệ thống các giải pháp đồng bộ và triển khai thực hiện quyết liệt và hiệu quả. Đặc biệt, là các giải pháp tăng cường dịch vụ y tế, giáo dục vì các lĩnh vực này liên quan trực tiếp đến phát triển con người.
Trong y tế cần tập trung nâng cao năng lực y tế dự phòng, y tế cơ sở và y tế gia đình. Trong giáo dục, cần nhanh chóng khắc phục tình trạng số năm đi học kỳ vọng đang ở mức thấp và tăng chậm hiện nay.
Bà Nguyễn Thị Thanh Mai cho biết, trong lĩnh vực kinh tế, mặc dù, lạm phát được kiềm chế nhưng vẫn ở mức cao, cần có giải pháp vĩ mô ổn định giá trị đồng nội tệ. Từ đó, nâng cao sức mua tương đương trong so sánh quốc tế nói chung và quy đổi tổng thu nhập quốc gia bình quân đầu người tính chỉ số thu nhập cấu thành HDI nói riêng. Đây cũng là giải pháp góp phần nâng cao thu nhập thực tế của dân cư.
Điểm tựa kết nối, tư vấn giới thiệu việc làm cho người lao động Trong 2 năm qua, khi xảy ra đại dịch COVID-19, số người lao động đến Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội giao dịch lên đến 6.000-7.000 người mỗi tháng để kết nối việc làm, giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), học nghề. Trung tâm Dịch vụ việc làm hàng năm tư vấn, kết nối việc làm cho hàng...