Một kiến nghị không hợp lý
Nếu thực hiện theo kiến nghị của HoREA – tiếp tục cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD) được sử dụng tỷ lệ tối đa 45% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn năm 2019 thay vì giảm về mức 40% như quy định hiện hành – thì Ngân hàng Nhà nước (NHNN) lại phải một lần nữa (lần thứ tư) ban hành một thông tư mới sửa đổi Thông tư 36/2014.
Nếu tiếp tục cho phép các tổ chức tín dụng được sử dụng tỷ lệ tối đa 45% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn năm 2019 thay vì giảm về mức 40% như quy định hiện hành – thì Ngân hàng Nhà nước lại phải một lần nữa ban hành một thông tư mới sửa đổi Thông tư 36/2014. Ảnh: THÀNH HOA
Điều này trước hết có nguy cơ làm xói mòn tính hữu hiệu và tính định hướng của các văn bản pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước, củng cố quan niệm rằng các chủ thể kinh tế luôn có thể “mặc cả” chính sách với Nhà nước, còn Nhà nước thì luôn phải “chạy theo” mà không thể dẫn dắt, định hướng thị trường theo ý muốn từ góc độ của người tạo lập và quản lý thị trường.
Hơn nữa, xem xét cụ thể hơn thì kiến nghị của HoREA cũng chưa hợp lý. Lộ trình giảm dần tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn đã được công bố rõ ràng, nên, về nguyên tắc, các TCTD và chủ thể liên quan như doanh nghiệp bất động sản và người mua bán, kinh doanh bất động sản đã có đủ thời gian (tính theo năm) chuẩn bị và đón nhận những mốc thay đổi trong lộ trình giảm tỷ lệ này. Rõ ràng, ở đây không có chuyện thay đổi đột ngột về chính sách của Nhà nước nên đã làm khó thị trường.
Nếu NHNN không quyết tâm thực hiện tỷ lệ 40% thì sự phụ thuộc của ngành bất động sản vào vốn tín dụng dài hạn của ngân hàng sẽ không có được động lực để thay đổi một cách căn bản và nhanh chóng.
Quan trọng hơn, việc điều chỉnh giảm tỷ lệ trên là một cấu thành thiết yếu của một chính sách chung của Nhà nước nhằm ổn định kinh tế vĩ mô trước các bất lợi đã, đang và sẽ xảy ra trong và ngoài nước. Cũng như HoREA đã nêu trong văn bản kiến nghị, NHNN vừa ban hành Chỉ thị 04/CT-NHNN ngày 2-8-2018, theo đó “Không xem xét, điều chỉnh tăng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng (trừ trường hợp đặc biệt); Kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán, BOT, BT giao thông; Kiểm soát chặt chẽ tín dụng tiêu dùng, nhất là tín dụng tiêu dùng liên quan đến bất động sản”. Chỉ thị này là một trong những hành động cụ thể triển khai chủ trương của NHNN nhằm hạn chế tăng trưởng tín dụng nhanh gây áp lực lên lạm phát và tỷ giá, đe dọa ổn định kinh tế vĩ mô.
Video đang HOT
Trong bối cảnh hạn chế tăng trưởng tín dụng như vậy, nếu không đặt ra chốt chặn tín dụng có nguồn từ vốn huy động ngắn hạn cho các dự án đầu tư trung, dài hạn (gồm các dự án bất động sản) thì, ít nhất là theo lý thuyết, hoặc là vốn tín dụng sẽ chảy hết vào các lĩnh vực không ưu tiên này, gây ra tình trạng đói vốn cho các nhu cầu ngắn hạn trong các lĩnh vực ưu tiên, hoặc là sự bất cân đối kỳ hạn giữa vốn huy động và cho vay sẽ tạo rủi ro lên tính an toàn hoạt động của hệ thống tín dụng.
Quan trọng không kém là những lý do mà HoREA đưa ra để biện minh cho kiến nghị của mình là không thỏa đáng. Ví dụ, HoREA nói rằng các doanh nghiệp bất động sản và người kinh doanh, mua bất động sản (đặc biệt ở TPHCM) phụ thuộc rất lớn vào nguồn vay tín dụng (dài hạn) ngân hàng, trong khi nguồn vốn thay thế từ các quỹ đầu tư bất động sản và thị trường chứng khoán vẫn chưa khả quan. Điều này là đúng, và theo logic, có thể luôn đúng trong một số năm nữa, chứ không phải chỉ có năm 2019, ít nhất là chừng nào mà NHNN phải hoãn thi hành tỷ lệ 40% này. Và cũng theo logic, nếu NHNN không quyết tâm thực hiện tỷ lệ 40% thì sự phụ thuộc của ngành bất động sản vào vốn tín dụng dài hạn của ngân hàng sẽ không có được động lực để thay đổi một cách căn bản và nhanh chóng.
Bản thân HoREA cũng nhìn nhận rằng điều này – sự phụ thuộc của các doanh nghiệp bất động sản TPHCM vào tín dụng ngân hàng cao hơn trên mức trung bình của cả nước – tiềm ẩn rủi ro cho cả hệ thống tín dụng và doanh nghiệp bất động sản. Như vậy, lẽ ra họ cũng nên đồng ý với chính sách của NHNN hướng tới giảm dần có lộ trình sự phụ thuộc của ngành bất động sản vào tín dụng ngân hàng như đã đặt ra tại các thông tư liên quan.
Cuối cùng, kể cả khi NHNN quyết tâm duy trì mục tiêu chính sách của mình (không thay đổi tỷ lệ 40% hay hoãn thời hạn thi hành tỷ lệ này) thì ngành bất động sản không phải là không thể tồn tại, không có giải pháp nào để khắc phục được khó khăn mà chính sách này của NHNN sẽ tạo ra. Trong cùng văn bản kiến nghị, HoREA cũng chỉ ra tám giải pháp cho các doanh nghiệp bất động sản thích nghi với lộ trình hạn chế tín dụng vào bất động sản, và nhấn mạnh đây cũng là cơ hội để tái cấu trúc doanh nghiệp. Với vai trò và sứ mệnh của mình, lẽ ra HoREA phải sáng suốt, tỉnh táo phân tích và nhận định tình hình ngay từ khi NHNN ban hành các thông tư để kịp thời đưa ra tám giải pháp này cho các doanh nghiệp bất động sản, không đợi đến khi “nước đến chân mới nhảy”
Ngọc Phan
Theo thesaigontimes.vn
UBCK Nhà nước đề xuất tăng quyền xử lý vi phạm
Ngày 3/10, UBCKNN công bố dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi) nhằm thay thế luật hiện hành. Nhiều điểm mới đã bổ sung vừa để kích thích thị trường phát triển nhưng cũng đồng thời siết chặt quản lý mạnh tay với vi phạm.
Sửa luật chứng khoán để minh bạch thị trường hơn
Cần được tiếp cận thông tin
Theo ông Trần Văn Dũng, Chủ tịch UBCKNN, năm 2010 khi xây dựng dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, UBCKNN cũng đã đề xuất trao cho UBCKNN quyền điều tra. Chính phủ đã đồng ý nhưng sau đó, Quốc hội đã không thông qua nội dung này. Nếu có được quyền điều tra thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho UBCKNN trong việc phát hiện, xử lý hành vi vi phạm.
Tuy nhiên, không như nhiều nước có quyền điều tra hành chính, ở Việt Nam từ "điều tra" thường được hiểu là liên quan đến điều tra hình sự nên có sự thận trọng. Trong dự thảo lần này, UBCKNN chỉ đưa ra quyền được tiếp cận thông tin như trên chứ không phải là quyền điều tra nhằm yêu cầu các bên liên quan cung cấp thông tin để hỗ trợ UBCKNN trong việc xác định hành vi giao dịch nghi vấn. Quyền này khác với quyền điều tra của cơ quan công an.
Cùng đó, dự thảo Luật sửa đổi đã quy định về chào bán chứng khoán là tách bạch điều kiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng và điều kiện chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng để phù hợp với tính chất của việc chào bán và theo thông lệ quốc tế.
Trong đó, dự thảo quy định điều kiện về mức vốn điều lệ đã góp của tổ chức phát hành tối thiểu 30 tỷ đồng; nâng quy định điều kiện hoạt động kinh doanh có lãi lên 2 năm liên tục liền trước năm đăng ký chào bán (hiện hành là 1 năm). Điều kiện riêng đối với chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng đã quy định thêm điều kiện về tính đại chúng.
Về thu hút nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam, dự thảo luật bổ sung các quy định theo hướng thống nhất với tinh thần của Luật Đầu tư năm 2014 như chủ thể là nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có trên 51% vốn điều lệ do nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ; quy định rõ tỷ lệ sở hữu nước ngoài dựa trên ngành nghề mà doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo hướng: tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại công ty đại chúng là 100%...
Siết thanh tra xử lý
Trong thời gian vừa qua, Bộ Tài chính (trong đó có UBCKNN) đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng trong quản lý giám sát, xử lý vi phạm trên TTCK; góp phần cho hoạt động TTCK phát triển lành mạnh, tương đối ổn định.
Tuy nhiên, các hành vi vi phạm pháp luật trên thị trường ngày càng tinh vi, phức tạp, việc kiểm tra, thanh tra, xử lý các hành vi giao dịch nghi vấn gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, UBCKNN chưa có đủ thẩm quyền để tổ chức và thực thi tốt các chức năng thanh tra và cưỡng chế thực thi (như chưa có thẩm quyền trong việc xem thông tin dòng tiền, sao kê điện thoại cuộc gọi đến và đi để xác minh mối liên quan...,) vì vậy kết quả thanh tra, kiểm tra và xử lý còn gặp nhiều khó khăn.
Theo đó, dự thảo đã bổ sung một số quy định về thẩm quyền của UBCKNN khi tiến hành thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm như: yêu cầu các tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ thanh, kiểm tra, giám sát, xác minh vi phạm; yêu cầu tổ chức, cá nhân có biểu hiện vi phạm giải trình, đối chất...
Bà Vũ Thị Chân Phương, Phó Chủ tịch UBCKNN cũng khẳng định: các hành vi vi phạm pháp luật trên thị trường ngày càng tinh vi, phức tạp, việc thanh, kiểm tra, xử lý các hành vi giao dịch nghi vấn gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, UBCKNN chưa có đủ thẩm quyền để tổ chức và thực thi tốt các chức năng thanh tra và cưỡng chế thực thi (chưa có thẩm quyền trong việc kiểm soát tài khoản, dòng tiền...), vì vậy, kết quả thanh, kiểm tra và xử lý còn gặp nhiều khó khăn.
Theo Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân tối đa là 1 tỷ đồng, đối với tổ chức tối đa là 2 tỷ đồng, trừ trường hợp quy định tại một số lĩnh vực đặc thù (trong đó có lĩnh vực chứng khoán) có quy định khác tại Luật tương ứng. Do vậy, nếu Luật Chứng khoán không quy định về mức phạt tiền tối đa cao hơn mức phạt tối đa chung cho các lĩnh vực theo Luật xử lý vi phạm hành chính thì chưa đủ tính răn đe và phòng ngừa vi phạm.
Trả lời về tình trạng thao túng hay làm giá đang trở thành mối nguy, ảnh hưởng quyền lợi nhà đầu tư? Chủ tịch UBCKNN - ông Trần Văn Dũng khẳng định: "Chừng nào còn có thị trường chứng khoán thì cơ quan giám sát còn cần được trao thẩm quyền để giám sát, theo kịp diễn biến của thị trường. Khi có quyền này thì việc xác định hành vi giao dịch đó có vi phạm hay không sẽ nhanh hơn".
KHÁNH MINH
Theo tienphong.vn
Tăng thêm quyền lực cho UBCKNN Ngày 3-10, UBCKNN công bố dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi) nhằm thay thế luật hiện hành. Dự luật này dự kiến sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp đầu năm 2019, và thông qua vào kỳ họp cuối năm 2019. Tăng điều kiện chào bán chứng khoán Một trong những điểm đáng chú ý trong quy định...