Moody’s giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm của TPBank, triển vọng ổn định
Moody’s nhận định tỷ lệ an toàn vốn của TPBank sẽ duy trì ổn định trong vòng 12 – 18 tháng tới …
Hãng xếp hạng tín nhiệm Moody’s cuối tuần qua đã cập nhật xếp hạng tín nhiệm với các ngân hàng Việt Nam. Theo đó, trong số 18 ngân hàng được tổ chức này đánh giá, TPBank là một trong 4 ngân hàng được giữ nguyên xếp hạng B1 và triển vọng ổn định.
Moody’s đánh giá các chỉ số về mức độ an toàn vốn, khả năng sinh lời tốt bởi phân khúc bán lẻ và SME với biên lợi nhuận cao, bảng cân đối lành mạnh, thanh khoản tốt của TPBank. Đặc biệt, Moody’s nhận định tỷ lệ an toàn vốn của TPBank sẽ duy trì ổn định trong vòng 12 – 18 tháng tới bởi nguồn lợi nhuận lõi của ngân hàng sẽ hỗ trợ khả năng tạo vốn nội tại.
Nhiều chỉ số khác của TPBank được Moody’s đánh giá giữ triển vọng ổn định, trong đó có chỉ số nhà phát hành dài hạn và xếp hạng tiền gửi nội tệ được xếp hạng mức B1.
Năm 2020, TPBank đã đưa ra nhiều biện pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 như cơ cấu nợ, giãn nợ cho các khách hàng đồng thời đưa ra nhiều gói vay mới với lãi suất ưu đãi, giảm so với quy định từ 1,5 – 2,5% với tổng giá trị 19.500 tỷ đồng. Ngân hàng cũng đã giảm lãi suất từ 0,5-1,5% cho hàng chục nghìn khách hàng đang vay, số dư nợ được giảm lãi hơn 26.400 tỷ đồng.
Bên cạnh việc đưa ra các phương án hỗ trợ kịp thời cho khách hàng thời đại dịch, TPBank cũng khẩn trương tập trung triển khai hàng loạt các phương án kinh doanh để phát triển trong giai đoạn “bình thường mới”. Đại diện ngân hàng TPBank cho biết, dự kiến đến hết tháng 6, lợi nhuận trước thuế trên 2.000 tỷ đồng, tổng huy động trên 157.000 tỷ đồng, tổng dư nợ tín dụng trên 111.000 tỷ đồng và nợ xấu được ngân hàng kiểm soát dưới 2%.
Tại đại hội cổ đông thường niên năm 2020, các cổ đông TPBank đã thông qua kế hoạch năm nay tăng tổng tài sản lên 180 nghìn tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2019; vốn điều lệ tăng 19% lên 10.199 tỷ đồng; huy động vốn tăng 7% đạt 158,8 nghìn tỷ (trong đó tiền gửi khách hàng tăng 15% trong khi sẽ giảm phần tiền gửi và vay của tổ chức tín dụng khác); dư nợ và cho vay trái phiếu dự kiến tăng 15% trong đó cho vay khách hàng tăng 9%; Tỷ lệ nợ xấu kiểm soát dưới 2,5% và lợi nhuận trước thuế 4.068 tỷ đồng, tương đương mức tăng 5%.
Trong năm 2020 ngân hàng sẽ quyết tâm tăng vốn điều lệ theo kế hoạch (từ 8.566 tỷ đồng lên 10.199 tỷ đồng) bằng phương án trả cổ tức bằng cổ phiếu tỷ lệ 20%. Việc tăng vốn sẽ thực hiện trong quý 3 hoặc quý 4 năm nay.
Theo lộ trình chiến lược đề ra đến năm 2020, TPBank sẽ tập trung ưu tiên các mũi nhọn như tài trợ thương mại, ứng dụng công nghệ cao, tập trung lĩnh vực công nghiệp phụ trợ, nâng cao cung cấp dịch vụ thu phí cho các doanh nghiệp SME, khách hàng cá nhân và khách hàng ưu tiên. Cổ đông ngân hàng cũng thông qua định hướng chiến lược với mục tiêu trở thành top 5 ngân hàng bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam.
Tín dụng và tiết kiệm trên địa bàn TP.HCM tăng chậm
Mặc dù có cải thiện từ tháng 5, song so với mức tăng trưởng của cùng kỳ năm trước thì cả tốc độ tăng trưởng tiền gửi và dư nợ tín dụng của các ngân hàng trên địa bàn đều giảm phân nữa.
Video đang HOT
Huy động tiết kiệm chỉ mới tăng trở lại từ tháng 5
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) - chi nhánh TP.HCM, trong những tháng đầu năm nay, do ảnh hưởng bởi dịch bệnh, NHNN đã thực hiện 2 lần điều chỉnh giảm lãi suất điều hành, giảm trần lãi suất huy động dưới 6 tháng và trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VNĐ đối với 5 nhóm ngành, lĩnh vực.
So với cuối năm 2019, lãi suất áp dụng của các tổ chức tín dụng trên địa bàn TP.HCM cũng được điều chỉnh giảm.
Lãi suất huy động bằng VNĐ trên địa bàn TP.HCM được áp dụng phổ biến ở mức 4,24 - 4,25%/năm đối với kỳ hạn dưới 6 tháng; mức 4,9 - 7,12%/năm đối với kỳ hạn từ 6 - 12 tháng; phổ biến ở mức 6,17 - 7,73%/năm đối với các kỳ hạn trên 12 tháng. So với cuối năm 2019, lãi suất giảm 0,09 - 0,75%/năm, tùy kỳ hạn.
Vì thế, tốc độ tăng trưởng tiền gửi tiết kiệm không cao. Số liệu đưa ra của NHNN - chi nhánh TP.HCM cho thấy, hoạt động huy động vốn của các ngân hàng trên địa bàn chỉ mới tăng trưởng trở lại từ tháng 5/2020, nhưng không cao.
Đến cuối tháng 4/2020, vốn huy động trên địa bàn vẫn giảm 0,13% so với cuối năm 2019, riêng tháng 5/2020 vốn huy động chuyển biến tăng, tăng 1,7% so với tháng trước và dự ước 6 tháng vốn huy động trên địa bàn tăng 2,12% so đầu năm nay.
Trong khi, 6 tháng đầu năm 2019, tổng huy động vốn của các ngân hàng trên địa bàn TP.HCM tăng đến 6%.
Cụ thể, tổng huy động vốn của các tổ chức tín dụng trên địa bàn đến 30/6/2020 (số liệu dự ước) đạt 2.601.000 tỷ đồng, tăng 2,12% so với cuối năm 2019 và tăng 9,81% so với cùng kỳ.
Trong đó, vốn huy động bằng VNĐ ước đạt 2.255.000 tỷ đồng, chiếm 86,7% trong nguồn vốn huy động và tăng 1,8% so với cuối năm 2019.
Vốn huy động bằng ngoại tệ ước đạt 346.000 tỷ đồng, chiếm 13,3% trong nguồn vốn huy động và tăng 4,25% so với cuối năm 2019.
Về hình thức, tiền gửi thanh toán của tổ chức kinh tế và cá nhân ước đạt 1.323.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 50,9% trong nguồn vốn huy động và tăng 2,85% so với cuối năm 2019.
Tiền gửi tiết kiệm của khách hàng dân cư ước đạt 1.101.000 tỷ đồng, chiếm 43,3% trong nguồn vốn huy động và tăng 0,25% so với cuối năm 2019.
Phát hành giấy tờ có giá ước đạt 177.000 tỷ đồng, chiếm 6,8% trong nguồn vốn huy động và tăng 8,97% so với cuối năm 2019.
Đánh giá về tình hình huy động vốn, ông Nguyễn Hoàng Minh, Phó giám đốc NHNN chi nhánh TP.HCM cho biết, nhìn chung, vốn huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tăng trưởng chậm trong 6 tháng đầu năm.
Tín dụng bắt đầu cải thiện, nhưng khó đạt mục tiêu
Theo báo cáo của NHNN chi nhánh TP.HCM, lãi suất đầu vào giảm kéo theo lãi suất cho vay đi xuống. Cụ thể, ,so với cuối năm 2019, lãi suất VNĐ giảm 0,27 - 1,5%/năm, tùy kỳ hạn.
Trong đó, lãi suất cho vay bằng VNĐ đối các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường đến nay được áp dụng phổ biến ở mức 6 - 9%/năm đối với ngắn hạn và ở mức 9,5 - 10,5%/năm đối với trung, dài hạn.
Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VNĐ đối với 5 lĩnh vực, ngành nghề áp dụng không quá 5%/năm theo đúng quy định của NHNN. Lãi suất cho vay trung, dài hạn bằng VNĐ đối với các khoản vay đầu tư, kinh doanh bất động sản được áp dụng cao nhất ở mức 12%/năm.
Lãi suất cho vay bằng USD được áp dụng phổ biến ở mức 3,47 - 3,7%/năm đối với ngắn hạn và ở mức 5,1 - 5,3%/năm đối với trung, dài hạn. Lãi suất huy động bằng USD được áp dụng ở mức 0% theo đúng quy định của NHNN.
Ông Nguyễn Hoàng Minh cho biết, tổng dư nợ tín dụng của các TCTD trên địa bàn đến 30/6/2020 (số liệu dự ước) đạt 2.354.000 tỷ đồng, tăng 2,52% so với cuối năm 2019 và tăng 8,39% so với cùng kỳ năm trước.
Cụ thể, dư nợ tín dụng bằng VNĐ ước đạt 2.187.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 92,9% trong tổng dư nợ tín dụng và tăng 2,7% so với cuối năm 2019. Dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ ước đạt 167.000 tỷ đồng, chiếm 7,1% trong tổng dư nợ tín dụng và tăng 0,27% so với cuối năm 2019.
Theo kỳ hạn tín dụng, dư nợ ngắn hạn ước đạt 1.142.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 48,51% trong tổng dư nợ tín dụng và tăng 3,89% so với cuối năm 2019. Dư nợ trung, dài hạn ước đạt 1.212.000 tỷ đồng, chiếm 51,49% và tăng 2,12% so với cuối năm 2019.
Đánh giá về tình hình hiện nay, theo lãnh đạo NHNN chi nhánh TP.HCM, tín dụng tăng chậm trong 5 tháng đầu năm và tiếp tục tập trung vào 5 nhóm, lĩnh vực ưu tiên theo định hướng của Ngân hàng Trung ương.
Trong đó, tín dụng tháng 1/2020 tăng 0,25%, tháng 02/2020 tăng 0,13%, tháng 3/2020 tăng 1,11%, tháng 4/2020 giảm nhẹ, giảm 0,05%, tháng 5/2020 tăng 1,7% so đầu năm 2020.
Đến cuối tháng 5/2020, dư nợ tín dụng mới bắt đầu tăng mạnh nhất từ đầu năm 2020 khi tăng 1,57% so với cuối năm 2019 và dự ước đến 30/6/2020, tín dụng trên địa bàn tăng 2,52% (5 tháng đầu năm 2019 tín dụng trên địa bàn TP.HCM tăng 5,2% và 6 tháng tăng tăng 7%).
Hoạt động tín dụng tăng trưởng chậm phản ánh đúng xu hướng thị trường, tình hình hoạt động của doanh nghiệp và tình hình tăng trưởng kinh tế -xã hội trong điều kiện đại dịch, nhiều hoạt động kinh tế, nhiều ngành lĩnh vực bị suy giảm sản xuất, ngưng hoạt động thậm chí đóng cửa.
Tín dụng bằng VNĐ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ tín dụng. 5 tháng đầu năm 2020, tín dụng bằng VNĐ chiếm tỷ trọng 93% trong tổng dư nợ tín dụng và tăng 2%. Trong khi đó, tín dụng bằng ngoại tệ chỉ chiếm tỷ trọng 7% trong tổng dư nợ tín dụng và giảm 1,83%.
Còn nếu phân tích dư nợ theo ngành, thì một số ngành bị ảnh hưởng bởi dịch Covid - 19 nên tốc độ tăng trưởng chậm, thấp gồm: vận tải kho bãi giảm 6,1%; thông tin truyền thông giảm 11%; cung cấp nước; khai khoáng giảm 15,5%; công nghiệp chế biến chế tạo tăng 1%...
Cũng theo ông Minh, đến 30/4/2020, tỷ lệ nợ xấu trên địa bàn chiếm khoảng 2,08% trong tổng dư nợ địa bàn.
Dư nợ cho vay ngắn hạn bằng VNĐ đối với 5 nhóm ngành, lĩnh vực (đến cuối tháng 4/2020) đạt 164.965 tỷ đồng, với 31.538 khách hàng vay vốn. Trong đó: cho vay nông nghiệp, nông thôn đạt 27.482 tỷ đồng; Cho vay xuất khẩu đạt 13.619 tỷ đồng; Cho vay hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 117.034 tỷ đồng; Cho vay công nghiệp hỗ trợ đạt 6.747 tỷ đồng; Cho vay Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao đạt 83 tỷ đồng.
Dư nợ cho vay theo chương trình bình ổn thị trường đến cuối tháng 4/2020 đạt 762 tỷ đồng cho 28 doanh nghiệp bình ổn được vay vốn, và tất cả là dư nợ ngắn hạn.
Năm 2020, chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp tiếp tục được ngành ngân hàng đẩy mạnh. Chương trình tiếp tục tập trung thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ doanh nghiệp thông qua 4 hoạt động chính, và kết quả như sau: Tổ chức cho các ngân hàng thương mại trên địa bàn đăng ký Gói tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp năm 2020.
Hiện đã có 12 thương hiệu ngân hàng đăng ký gói tham gia chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp năm 2020 là 274.450 tỷ đồng. Đến cuối tháng 4/2020, các tổ chức tín dụng đã giải ngân 35.855 tỷ đồng với 4.571 khách hàng vay vốn.
"Các ngân hàng đang kích cầu tín dụng, song do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, khó có thể tăng trưởng tín dụng ở mức cao trong năm nay nên khó có thể đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay", ông Minh cho biết thêm.
Rủi ro môi trường và túi tiền doanh nghiệp Rủi ro môi trường là một nhân tố quan trọng đối với xếp hạng tín nhiệm quốc gia ở Việt Nam. Đó là một nhận xét trong báo cáo của Moody's khi đánh giá về ảnh hưởng của các yếu tố rủi ro môi trường, xã hội và quản trị công (ESG) đến quyết định xếp hạng tín nhiệm. Tổ chức này đã...