Mô hình nào cho mobile money tại Việt Nam?
Trong kỳ họp thường kỳ tháng 3-2019, Thủ tướng đã yêu cầu Bộ Thông tin và Truyền thông cùng Ngân hàng Nhà nước xây dựng phương án cho doanh nghiệp viễn thông thí điểm dịch vụ thanh toán điện tử không thông qua tài khoản ngân hàng ( mobile money).
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi muốn đề cập đến các mô hình quản lý mobile money trên thế giới và kết quả của việc áp dụng phương thức này với sự phát triển tại các quốc gia, nhằm cung cấp cho bạn đọc một góc nhìn khác.
Nhìn chung, hiện nay trên thế giới có hai mô hình quản lý mobile money khác nhau: mô hình nhà điều hành mạng di động (Mobile Network Operator – MNO) và mô hình quản lý kiểu ngân hàng (Bank-led model).
Điểm khác biệt quan trọng giữa hai mô hình này là các nhà cung cấp thanh toán di động không phải tuân theo các yêu cầu quy định giống như các ngân hàng khi họ nhận t.iền gửi hoặc thực hiện các chức năng liên quan đến t.iền gửi.
Trong mô hình quản lý kiểu ngân hàng, các nhà cung cấp dịch vụ di động có nghĩa vụ phải làm việc cùng với ngân hàng và do đó, dịch vụ này chịu sự giám sát từ trước của các cơ quan quản lý tài chính của một quốc gia.
Việc lựa chọn mô hình quản lý kiểu nào cũng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của mobile money. Tuy nhiên, theo tôi mô hình MNO có lợi cho việc phổ biến mobile money hơn mô hình quản lý kiểu ngân hàng.
Chúng ta có thể thấy hai mô hình này đại diện cho hai thái cực quy định đối nghịch. Trong mô hình MNO, dịch vụ được điều hành bởi nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động, hoạt động độc lập với các tổ chức tài chính; trong khi đó ở mô hình quản lý kiểu ngân hàng, dịch vụ này được điều hành chủ yếu bởi các tổ chức tài chính. Tiêu biểu cho hai mô hình quản lý này có hai nước: Mexico (mô hình quản lý kiểu ngân hàng) và Kenya (mô hình MNO).
Ở Mexico, mối quan hệ giữa các ngân hàng với các cơ quan quản lý rất chặt chẽ, thể hiện ở mức độ tuân thủ các nguyên tắc định danh khách hàng (KYC) và phòng chống rửa t.iền (AML) quốc tế. Các ngân hàng đưa ra các quy định cho thanh toán di động ngay từ đầu.
Ngược lại, mối quan hệ của các ngân hàng với các cơ quan quản lý của Kenya không chặt chẽ, thể hiện ở việc tuân thủ lỏng lẻo của quốc gia này với các hướng dẫn KYC và AML quốc tế. Và các ngân hàng không thể can thiệp vào quy trình cho phép các dịch vụ thanh toán di động được triển khai.
Video đang HOT
Kết quả của hai mô hình quản lý này thể hiện ở mức độ phổ biến của mobile money, theo đó, tại Kenya, hơn 72% dân số có tài khoản thanh toán di động so với con số chỉ hơn 11% tại Mexico.
Vấn đề lạm quyền điều tiết (regulation capture) được nhiều người mang ra để giải thích cho kiểu mô hình quản lý, tuy nhiên việc này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của loại dịch vụ đến cộng đồng dân cư chưa tiếp cận được dịch vụ ngân hàng và bị loại trừ tài chính (financial exclusion).
Nói như vậy không có nghĩa là việc ban hành các quy định là không cần thiết hoặc không quan trọng mà có chăng là các quy định pháp lý sẽ làm cho dịch vụ mobile money trở nên đắt đỏ hơn và tăng rào cản gia nhập của các công ty viễn thông.
Các cơ quan quản lý có thể kiểm soát được vấn đề lạm quyền điều tiết khi họ thấy nhu cầu được sử dụng các dịch vụ tài chính của đại đa số dân chúng chưa tiếp cận được dịch vụ ngân hàng là động lực chính cho việc hoạch định chính sách, điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các các mô hình và công nghệ mới.
Tôi xin dẫn ví dụ mô hình phát triển mobile money tại các quốc gia Bolivia, El Salvador, Guatemala, Honduras và Paraguay… nơi mà Tigo Money (một loại mobile money) được cung cấp bởi công ty Bỉ, Milicom International.
Dịch vụ này lần đầu tiên được ra mắt tại Paraguay vào năm 2008 mà không chịu sự ràng buộc về quy định nào của Ngân hàng Trung ương (NHTW) Paraguay hoặc các cơ quan quản lý tài chính. Người dùng điện thoại di động có thể tự động đăng ký thanh toán di động.
Trong trường hợp của Brazil, các tổ chức phi ngân hàng có thể phát hành t.iền điện tử như một định chế thanh toán và nguồn t.iền nắm giữ tại tài khoản của NHTW, riêng nguồn t.iền này không được dùng để cho vay.
Tại Uganda, các hướng dẫn quy định không hoàn toàn theo mô hình MNO nhưng ít nghiêm ngặt hơn so với mô hình quản lý kiểu ngân hàng. Các nguyên tắc về mobile money của quốc gia này yêu cầu các MNO phải hợp tác với ngân hàng nhưng người dùng không phải mở một tài khoản riêng để sử dụng các dịch vụ này và mobile money được gửi vào một tài khoản ký quỹ, không phải tài khoản cá nhân.
Ở một khía cạnh khác, quy định được hình thành sau khi các dịch vụ được cung cấp một cách hiệu quả. Đây là trường hợp của Philippines, quốc gia đầu tiên cung cấp dịch vụ mobile money (Smart Money (2001) và G-Cash (2005)). Hình thức mobile money đầu tiên tại Philippines là đó dịch vụ chuyển t.iền, ban đầu đây là sự hợp tác với một ngân hàng, Banco d’Oro, sau đó dịch vụ này được cung cấp bởi MNO mà không có đối tác ngân hàng nữa.
Các dịch vụ này ban đầu được cung cấp mà không chịu bất kỳ quy định nào và dịch vụ này được xem là một hình thức cạnh tranh với các ngân hàng. Hiện tại, cả hai mô hình quản lý kiểu ngân hàng và MNO cùng tồn tại ở Philippines. Quốc gia này được xem là một ví dụ về tính linh hoạt trong quản lý mobile money.
Ngay cả sau khi các quy định đã được xác lập thì NHTW Philippines vẫn tiếp tục có những sửa đổi. Ví dụ, một yêu cầu được đặt ra bởi NHTW Philippines là trước khi được phép giao dịch mobile money, các đại lý sẽ cần phải tham dự các buổi huấn luyện về AML và chống tài trợ k.hủng b.ố (CFT), đây là các hoạt động không phổ biến bên ngoài Manila. Tuy nhiên, các yêu cầu này đã được nới lỏng để cho phép các MNO cung cấp hoạt động đào tạo cho các đại lý.
Quay lại ở Việt Nam, hiện tại dự thảo về nguyên tắc quản lý dịch vụ mobile money mà Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến các bộ ngành liên quan trước khi trình Chính phủ quyết định. Liệu mobile money có thể phát triển để thúc đẩy tài chính toàn diện và thanh toán không dùng t.iền mặt hay không sẽ phụ thuộc việc lựa chọn mô hình quản lý đối với dịch vụ này, cũng như việc cơ quan quản lý có thể vượt qua được vấn đề điều tiết quá mức như trường hợp của Mexico.
Theo thesaigontimes.vn
DN viễn thông "nhảy" vào thị trường thanh toán, ngân hàng có lo?
Khi các công ty viễn thông tham gia vào thị trường thanh toán điện tử không thông qua tài khoản ngân hàng (Mobile money) sẽ giải quyết bài toán thanh toán không dùng t.iền mặt đến 100% người dân, nhưng lại thách thức ngân hàng.
Tại kỳ họp tháng 3/2019 Chính phủ đã giao Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) nghiên cứu và xây dựng phương án theo hướng thí điểm các nhà mạng viễn thông thực hiện dịch vụ thanh toán điện tử không thông qua tài khoản ngân hàng (Mobile money).
Theo đ.ánh giá, việc cho phép tài khoản viễn thông di động thanh toán mua hàng hóa sẽ giải quyết bài toán thanh toán không dùng t.iền mặt đến 100% người dân, nhưng lại thách thức ngân hàng.
Dự kiến quy định hạn mức giao dịch cho Mobile Money là 10 triệu VNĐ/tháng. (Ảnh minh họa)
Đ.ánh giá về sức ép cạnh tranh khi các công ty viễn thông tham gia vào thị trường thanh toán, bà Phùng Nguyễn Hải Yến, Phó tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) cho rằng xu thế các công ty viễn thông tham gia là xu thế tất yếu không thể tránh khỏi. Với mạng lưới thông tin của công ty viễn thông rộng khắp và đầy đủ thông tin khách hàng, họ hoàn toàn có thể cung cấp các dịch vụ tài chính, đặc biệt là tài chính toàn diện cho người dân.
"Ngân hàng chúng tôi nhận thấy phải đi cùng nhau, muốn phát triển phải cùng hợp tác. Ngân hàng có mở rộng nhiều liên kết với công ty viễn thông, song hành cùng công ty viễn thông để cung cấp tài chính tốt nhất cho người dân, bao gồm những thanh toán đơn giản như t.iền điện, t.iền nước, phí và những thanh toán phức tạp hơn như đầu tư tài chính. Công ty viễn thông có lợi thế là cơ sở thông tin khách hàng đầy đủ, rộng khắp đó là cơ sở để khai thác", bà Yến cho hay.
Còn bà Trần Thu Hương, Giám đốc Khối Bán lẻ kiêm Giám đốc chiến lược Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIB) cho rằng, dù nhà mạng tham gia nhưng ngân hàng vẫn có những lợi thế riêng biệt.
"Ngân hàng có 2 lợi thế lớn nhất đó là cơ sở vật chất của ngân hàng trong việc tiếp cận khách hàng, cung cấp dịch vụ trọn vẹn, cái này thì không có một công ty nào khác có thể có được.
Điểm mạnh thứ hai là sự tin dùng của người dân. Các ngân hàng đã có tiếng, người dân quen đến tận ngân hàng để thanh toán và làm các dịch vụ khác trong cuộc sống hằng ngày. Độ trung thành của người tiêu dùng đối với mảng banking vẫn chắc chắn, vững chắc để ngân hàng tự tin dựa trên tập khách hàng vốn có của mình để có thể đầu tư thêm công nghệ mới nhất vào nhằm tăng thêm sự tiện lợi cho người dân", bà Hương phân tích.
Mặt khác, bà cũng cho rằng, các công ty viễn thông cũng có thế mạnh nhất định đó là công nghệ. Họ có tập dữ liệu tốt và có một số chính sách họ không bị ràng buộc nhiều như ngân hàng.
Ví dụ, với ngân hàng khi tiếp cận khách hàng sẽ có một số yêu cầu như khách hàng phải đến tận trụ sở ngân hàng để xác thực thông tin khách hàng, không thể làm online được, điều đó để bảo vệ tín dụng ngân hàng, hệ thống ngân hàng, ngân hàng phải đi theo, có quy trình chặt chẽ.
Tuy nhiên, bà Hương khẳng định, độ đồng bộ các sản phẩm và công nghệ tích hợp để đưa ra gói sản phẩm toàn vẹn cho khách hàng thì ngân hàng vẫn đang duy trì ưu thế tốt nhất.
Cũng theo bà Hương, trước đây ngân hàng tiếp cận với công ty viễn thông ở mức rất cơ bản là cùng nhau hợp tác để khai thác dữ liệu của họ nhưng khi cả hai bên cùng có dịch vụ để quản lý dòng t.iền thì sẽ có nhiều cơ hội để công ty viễn thông tận dụng. Ngân hàng có thể tận dụng công nghệ mới và dữ liệu của công ty viễn thông, việc hợp tác này có lợi cho nền kinh tế.
"Phía ngân hàng cho rằng càng nhiều nhà cung cấp thì càng mang lại trải nghiệm tốt cho khách hàng và càng cạnh tranh, ngân hàng càng hoàn thiện hơn", bà Hương cho hay.
Nói về khó khăn của ngân hàng khi tiếp cận khách hàng, ông Trần Quốc Anh, Giám đốc khối khách hàng cá nhân ngân hàng HD bank cho biết, theo quy định của NHNN thì hiện nay đa phần khách hàng muốn mở tài khoản đều phải đến trụ sở ngân hàng để xác thực thông tin. Tuy nhiên, trụ sở ngân hàng thương mại lại thường không nằm đầy đủ ở các huyện, xã.
"Theo quy định, tại mỗi tỉnh, mỗi ngân hàng chỉ có 1 chi nhánh, 3 phòng giao dịch, trong khi có tỉnh địa bàn rộng, mười mấy huyện nên việc di chuyển, xác thực là khó khăn. Do đó có chăng NHNN nên quy định thêm về phương thức xác thực đảm bảo không có sự gian lận. Ví dụ hệ thống xác thực chứng minh thư nhân dân, chúng ta có thể tìm đối tác trung gian, nơi vùng sâu, vùng xa chưa có ngân hàng.
Đối với khách hàng đã có giao dịch tại ngân hàng nào đó rồi, họ muốn mở tài khoản của ngân hàng khác thì NHNN cho phép mở trực tuyến, nguồn t.iền của khách hàng đến tài khoản mới có thể bắt buộc phải đến từ tài khoản cũ. Tôi nghĩ việc đó là xác thực, không thể nào gian lận được", ông Quốc Anh kiến nghị.
Theo infonet.vn
Mobile Money có thể sẽ góp phần bùng nổ các start-up Việt Nam 'Muốn một dịch vụ nào đó phổ biến đến 100% người dân thì đầu tiên là nền tảng thanh toán phải đến được 100% người dân. Không phương tiện nào có thể thực hiện việc này tốt hơn là 't.iền di động' - Mobile Money', Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh tại hội thảo 'T.iền điện tử trên thuê bao...