Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc, điểm đến tâm linh trứ danh Nam Bộ
Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc là một điểm đến tâm linh được cộng đồng đam mê du lịch chú ý nhất khu vực miền Tây Nam Bộ.
Đây là một điểm đến làm nên sự nổi tiếng của thành phố Châu Đốc trong bản đồ du lịch An Giang nhiều màu sắc.
Du lịch An Giang là một bức tranh đa màu sắc. Nhưng nổi bật trong bức tranh ấy chính là màu sắc du lịch tâm linh. Ở An Giang có nhiều đình, chùa, miếu có tiếng tăm gắn với những lễ hội độc đáo. Những ngôi chùa miếu nổi tiếng ở vùng An Giang có thể kể đến như Miếu Quan Đế ở Tân Châu, Chùa Tà Pạ ở Tri Tôn hay Chùa Vạn Linh Núi Cấm ở Tịnh Biên. Nhưng nổi tiếng và được cộng đồng du lịch tâm linh lui tới nhiều nhất phải kể đến Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc.
1. Tổng quan về Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc
1.1 Giới thiệu sơ nét về Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc
Đã từ lâu, địa danh Miếu Bà Chúa Xứ đã gắn liền với vùng Châu Đốc linh thiêng đầy huyền bí. Không ai quy định gì, mặc nhiên, những ai chọn đến du lịch Châu Đốc đều nhất định phải ghé viếng Miếu Bà Chúa Xứ An Giang. Không chỉ là một điểm đến tâm linh thu hút sự chú ý của cộng đồng du lịch, Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc còn là niềm tự hào của du lịch địa phương nói riêng hay cả tỉnh An Giang nói chung.
Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc là niềm tự hào lớn của du lịch An Giang
Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc không chỉ là một địa điểm tâm linh mà còn gắn với những câu chuyện mang tính lịch sử về người khai hoang vùng đất cũng như chống giặc ngoại xâm. Tương truyền, Bà Chúa Xứ Núi Sam là một nhân vật khá linh thiêng, cầu gì được nấy nên hàng năm, lượng người tứ xứ đổ về đây để nguyện cầu mong công việc thuận buồm xuôi gió, gia đạo bình an ngày càng nhiều (có năm lên đến hơn hàng triệu lượt người đến viếng Bà).
Nhìn từ trên cao, không gian Miếu Bà hiện ra rộng lớn và có kiến trúc vô cùng đẹp mắt. Ảnh: Bac Huynh Photography
Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc ngày trước vốn chỉ là một ngôi nhà gỗ vách lá đơn sơ để thờ phụng, đến nay đã trở thành một công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn văn hóa Đông phương.
Video đang HOT
Miếu Bà Chúa Xứ được xây dựng theo nét kiến trúc mang đậm dấu ấn phương Đông
Có truyền thuyết kể lại rằng, cách đây khoảng chừng 200 năm, người dân tại Châu Đốc đã phát hiện một bức tượng Bà ở khu vực đỉnh Núi Sam và có nguyện vọng thỉnh đem xuống để thờ. Tuy nhiên, đã có một hiện tượng kỳ lạ xảy ra. Nhiều thanh niên cường tráng cố khiêng tượng Bà xuống núi nhưng không dịch chuyển được. Theo lời một bà đồng, người dân cử 9 thiếu nữ đồng trinh đên khiêng tượng Bà xuống. Kỳ lạ thay, lúc 9 thiếu nữ cùng khiêng tượng Bà xuống, pho tượng được di chuyển vô cùng dễ dàng và nhẹ nhàng. Đến khu vực chân Núi, tượng Bà bỗng hạ xuống và nặng trịch, không thể di chuyển được nữa. Vì thế, người ta chọn đây là nơi an vị Bà, sau đó xây dựng một ngôi miếu để thờ phụng.
1.2 Cách di chuyển đến Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc
Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc tọa lạc tại phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Vì là một trung tâm du lịch của tỉnh nên đường đi đến đây khá dễ dàng và thuận tiện.
Nếu bạn đi từ Thành phố Hồ Chí Minh, hãy di chuyển bằng phương tiện xe khách theo hướng cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Trung Lương – Mỹ Thuận và tìm đường đến Quốc lộ 91 là sẽ đến được trung tâm thành phố Châu Đốc. Quãng đường dài tổng cộng 207 km và mất hơn 5 tiếng để di chuyển. Vì thế, bạn có thể chọn những tuyến xe khách chạy đêm để có thể tiết kiệm thời gian nhé!
Nếu bạn di chuyển từ trung tâm thành phố Long Xuyên, bạn có thể chọn phương tiện xe máy để đến đây. Đầu tiên, hãy chạy xe đến với khu vực Vĩnh Thạnh Trung. Sau đó, bạn đi dọc theo Quốc lộ 91 hoặc đường ĐT945 để đến được Kinh 4 thuộc phường Châu Phú B, Thành phố Châu Đốc. Sau đó, bạn đi tiếp đến đường Châu Thị Tế/ Tân Lộ Kiều Lương sẽ đến được khu vực Núi Sam và chiêm ngưỡng sự uy nghi của Miếu Bà. Trên đường đi, bạn có thể tận hưởng vẻ đẹp của Khu du lịch Cáp treo Núi Sam.
1.3 Thời điểm thích hợp để đến Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc
Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc là một điểm đến mà bạn có thể ghé thăm bất kỳ thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên, nhiều người vẫn thường chọn viếng Bà vào dịp Tết Nguyên Đán để nguyện cầu những điều bình an trong cuộc sống.
Ngoài ra, khách thập phương thường hay chọn viếng Bà vào dịp 24 đến 27 tháng 4 Âm lịch. Đây là thời điểm diễn ra Lễ hội vía Bà Chúa Xứ Núi Sam. Vì thế, vào thời gian này, Miếu Bà cực kỳ đông đúc và nhộn nhịp, đặc biệt vào ngày 25 vì đây là ngày vía chính. Tùy theo mục đích đến nơi đây để tham quan, cầu nguyện hay dâng lễ vật, bạn có thể chọn thời điểm thích hợp để đến với địa điểm tâm linh nổi tiếng này.
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được diễn ra từ 24 đến 27 tháng Tư hàng năm
2. Bà Chúa Xứ Núi Sam là ai?
Theo nhiều nghiên cứu, tượng Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc được đánh giá là pho tượng đá sa thạch xa xưa nhất ở Việt Nam và có nhiều bộ áo phụng cùng nhất theo sách Kỷ lục của tỉnh An Giang 2009.
Louis Malleret, một nhà khảo cổ người Pháp đã nghiên cứu và cho rằng, tượng Bà vốn thuộc nhóm tượng thần Vishnu (nam thần). Theo nghiên cứu và dự đoán, tượng Bà có giá trị nghệ thuật rất cao và được tạc vào cuối thế kỷ thứ VI. Rất có thể, tượng Bà là một hiện vật còn sót lại của nền văn minh Óc Eo.
Tương tự thế, theo những ghi chép của nhà văn Sơn Nam, ông cho rằng tượng Bà vốn là tượng Phật nam của người Khmer xưa đã bị bỏ quên rất lâu trên đỉnh núi Sam. Một thời gian sau, tượng Bà được người dân Việt mang về và tân trang lại.
Một nhận định khác nữa đến từ ông Trần Văn Dũng, tác giả cuốn “Lịch sử khai phá vùng Châu Đốc 1757-1857″ cũng cho rằng, tượng Bà Chúa Xứ vốn là tượng nam, đang ngồi với tư thế vương giả. Phần đầu tượng hiện nay vốn không phải là nguyên gốc mà là đã được chế tác lại, vì đá ở phần này khác hẳn đá ở phần thân tượng.
3Kiến trúc của Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc, một không gian lung linh huyền ảo
Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc ngày xưa được ông Thoại Ngọc Hầu cho khởi công xây dựng. Ban đầu, ngôi miếu được xây dựng với kết cấu bằng gỗ với thiết kế khá đơn sơ. Sau này, người dân biết ơn Bà Chúa Xứ đã giúp địa phương mưa thuận gió hòa, bảo vệ xóm làng nên đã quyên góp và dựng lên một ngôi miếu khá khang trang và chỉn chu để thờ phụng Bà vào năm 1870.
Kiến trúc của miếu thờ bà có các văn hóa mang đậm tính nghệ thuật. Ở phía trên cao của khu vực lầu chánh điện có các pho tượng thần vô cùng mạnh mẽ và uy nghi đang dang tay đỡ những đầu kèo. Khung bao, cánh cửa và các chi tiết của miếu được chạm trổ, khắc, lộng hết sức tinh xảo và lộng lẫy.
Đến năm 1976, Miếu Bà hầu như đã được hoàn thiện trong việc xây dựng. Kiến trúc của Miếu Bà nhìn trên cao như chữ Quốc, với các khối tháp được bao bọc như một đóa hoa sen đang kỳ nở rộ.
Phần mái ngói của chánh điện được vút công như một đài sen đang trong kỳ nở rộ
Chánh điện của Miếu Bà bao gồm hai lớp, với lớp trong cùng là nơi thờ phụng với tượng Bà được an tọa trên bệ cao, phía bên cạnh được đặt hai con hạc trắng tượng trưng cho cốt cách tiên thành của Bà. Hương án thờ bên phía phải tượng Bà là một linga (sinh thực khí nam) bằng đá, được gọi là bàn thờ Cậu. Phía còn lại là hương án thờ một tượng gỗ được chạm hình yoni (sinh thực khí nữ), được gọi là bàn thờ Cô. Lớp thứ hai, sát với hai bức tượng chim phượng là bàn thờ Hội đồng. Hai bên tả hữu của bàn thờ Hội đồng là bàn thờ Tiền hiền khai khẩn ở bên trái và bên còn lại là bàn thờ Hậu hiền khai cơ.
Hành trình tâm linh đến với chùa Bích Động ở Ninh Bình
Chùa Bích Động là một trong những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Ninh Bình và của cả nước, nơi đây được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhị động" (có nghĩa là Động đẹp thứ nhì của trời Nam sau động Hương Tích - Hà Nội ngày nay).
Chùa Bích Động thuộc địa phận thôn Đam Khê, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, là một trong những nơi linh thiêng nhất mà khách hành hương luôn tìm về.
Đây là một di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt và nằm trong Quần thể danh thắng Tràng An, được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới.
Về lịch sử hình thành theo sách "Đại Nam Nhất Thống Chí" đã ghi: Năm Chính Hòa thứ 15 (1695) có hai vị sư là Chí Kiên và Chí Thể đến khu vực Đam Khê, thấy phong cảnh kỳ thú, núi non trùng điệp, lại phát hiện ra nhiều hang động đẹp và đã có chùa, nên hai vị sư bèn vận động nhân dân trong vùng tôn tạo, mở mang thêm cảnh chùa... xây dựng lại thành 3 ngôi chùa: chùa Hạ, chùa Trung, và chùa Thượng để tu hành. Năm Đinh Hợi (1707), hai nhà sư Chí Kiên và Chí Thể đã đúc một quả chuông lớn, hiện còn treo ở động Tối. Hai năm sau, năm Kỷ Sửu (1709) vào tháng 8 âm lịch, hai nhà sư Chí Kiên và Chí Thể lại làm bia khắc minh văn chùa Bích Động viết bằng chữ Hán.
Vào cuối năm Giáp Ngọ, tức năm 1774, sau khi dẫn quân đi tuần hành ở biên giới trở về, chúa Trịnh Sâm và Tể tướng Nguyễn Nghiễm đã ghé thăm chùa. Chúa Trịnh Sâm đã đặt tên cho chùa là Bích Động, một dòng chữ nhỏ ở bên chữ Bích Động ghi "Nhật nam nguyên chủ đặc bút" chính là tên hiệu của chúa Trịnh Sâm.
Điều độc đáo là ở núi Bích Động có 3 ngôi chùa, lại có 3 động gồm 2 động khô và 1 động nước hình thành theo kiểu chữ "Tam" Hán tự. Dưới đất là Xuyên Thuỷ Động, lưng chừng núi là Bích Động ôm gọn lấy điện Mẫu và chùa Trung, bên trên chùa Trung là Động Tối.
Cầu đá dẫn vào cổng Tam quan chùa Bích Động, được ghép bằng những phiến đá xanh. Ở đây có con đường bên chân núi dài khoảng 55m lát gạch là con đường "Nhất chính đạo" để đi vào chùa Hạ. Khu vực chùa Hạ quay hướng Tây Bắc, toạ lạc dưới chân núi Bích Động trên nền cao hơn 2m so với sân gạch, được kè bằng đá phiến. Cũng giống như các ngôi chùa khác ở làng quê Việt Nam, kiến trúc chùa Hạ cũng theo kiểu chữ Đinh (Hán tự). Ở Thượng điện dựng toàn bằng cột đá liền một khối, mái chùa cong hình lưỡi đao lợp ngói âm dương. Hồi bên tay phải có gắn một tấm bia lớn làm từ thời Nguyễn ghi tên những người có công đức xây dựng và tu sửa chùa.
Từ chùa Hạ du khách bước lên 120 bậc đá ở bên trái lên lưng chừng dãy núi Ngũ Nhạc là chùa Trung. Đây là ngôi chùa rất độc đáo ít nơi có được, vách núi ở đây hõm vào như miệng rồng chứa hẳn một phần ngôi chùa bên trong, chỉ còn lại một phần mái trước chùa là lộ thiên. Phía trên mái chùa Trung có mười chữ Hán màu vàng, đọc theo thứ tự là: Già Lam Thần - Đại Hùng Bảo Điện - Nam Thiên Tổ.
Chùa có 3 gian thờ Phật, về mặt bài trí ở chùa Trung, Phật Tổ Như Lai có cửu long phù giá. Hai tượng ngồi phía ngoài là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, bên trái là Phổ Hiền BồTát, trong chính cung là Thánh hiền...lễ Phật xong ở Thượng điện, bước lên 21 bậc đá là đến Động Tối. Động Tối có nhiều nhũ đá được thiên nhiên mài tạc qua hàng triệu năm tạo thành những ông tiên, rồng lượn, voi chầu, hổ phục chim đại bàng, kho tiền, kho thóc ... Tất cả như một thế giới cổ tích bị hoá đá khiến quí khách phải ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thần tiên của tạo hoá. Nhìn ra phía ngoài là cầu Giải Oan, hầu hết khách qua đây thường "thỉnh" lên ba tiếng chuông ngân nga như để "giải oan" cho tâm hồn mình nơi cửa Phật được thanh thản. Từ cửa Động Tối du khách bước theo những bậc đá dẫn lên chùa Thượng, từ đây có thể phóng tầm mắt bao quát được toàn bộ cảnh đẹp của vùng núi non hùng vĩ của Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới Quần thể danh thắng Tràng An.
Lên chùa Thượng, du khách phải bước tới gần 40 bậc đá theo sườn núi. Chùa Thượng còn gọi là chùa Đông, chùa thờ Quán Thế Âm Bồ Tát. Đây là ngôi chùa nằm ở vị trí cao nhất, gần đỉnh núi Bích Động. Từ chùa Thượng nhìn ra xa có 5 ngọn núi đứng độc lập chầu về núi Bích Động, trông giống như 5 cánh hoa Sen, gọi là Ngũ Nhạc Sơn, gồm núi Tầm Sặng, núi Gia Định, núi Con Lợn, núi Đầu Cầu và núi Hang Dựa. Chùa Thượng có hai miếu hai bên: Bên phải thờ Thổ Địa, bên trái thờ Sơn Thần. Cạnh chùa có một bể nước gọi là "bể nước Cam Lồ" của đức Quán Thế Âm.
Chùa Bích Động không những được biết đến là ngôi chùa cổ linh thiêng bậc nhất ở cố đô Hoa Lư từ xưa đến này mà còn là một tác phẩm nghệ thuật cổ kính, trang nghiêm của con người hoà nhập với khung cảnh thiên nhiên tươi xanh, tĩnh lặng góp thêm cho bức tranh toàn cảnh của một vùng di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới được hoàn mỹ và trường tồn cùng thời gian.
Đền Đồng Ân điểm đến trên hành trình du lịch tâm linh Tọa lạc bên tuyến đường kết nối Phố Mới - Bảo Hà (Lào Cai) - Văn Yên (Yên Bái), đền Đồng Ân (tên gọi khác là đền Mi) thuộc thôn Quyết Tâm, xã Thái Niên, huyện Bảo Thắng là di tích lịch sử, có ý nghĩa tâm linh với người dân trong vùng và trở thành điểm đến trên hành trình du lịch...