Mẹ tá hoả thấy con béo phì chỉ vì ‘khoái’ ăn hộ cơm cho bạn
Khẩu phần ăn uống giàu năng lượng nhưng thiếu tham gia các hoạt động thể chất, dẫn đến tỷ lệ thừa cân, béo phì ở học sinh tiểu học thành thị tăng cao…
Nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho thấy, ở khu vực thành thị, tỷ lệ thừa cân béo phì (TCBP) cao nhất ở bậc tiểu học, chiếm 41,9%, giảm dần còn 30,5% ở bậc trung học cơ sở (THCS) và chỉ còn 13,5% ở bậc trung học phổ thông (THPT). Tỷ lệ này tương ứng ở khu vực nông thôn lần lượt là 17,8%, 11,2% và 6,2%. Trong khi đó, tỷ lệ gầy còm và thấp còi lại có xu hướng cao hơn ở nhóm học sinh trung học, đặc biệt ở khu vực nông thôn, với các mức là 19,4% ở bậc tiểu học, 35,7% ở bậc THCS và 25,2% ở bậc THPT.
Chị Nguyễn Thu Hằng (phụ huynh học sinh quận Hoàng Mai) cho biết, con chị mới 6 tuổi đã nặng hơn 33 kg, thừa khoảng 10kg so với tiêu chuẩn. Bác sĩ yêu cầu cháu thay đổi chế độ dinh dưỡng nhưng ở trường không có chế độ ăn riêng cho trẻ thừa cân béo phì. Ở lớp, thi thoảng tổ chức sinh nhật, rất nhiều bánh ga tô, bánh kẹo, bim bim… là thức ăn giàu năng lượng nhưng nghèo vi chất dinh dưỡng… Chưa kể nhiều lúc con còn ăn hộ phần cơm của bạn.
Dinh dưỡng mất cân bằng ngày càng phổ biến
Nghiên cứu về khẩu phần ăn của học sinh cho thấy đối với học sinh tiểu học (lứa tuổi từ 7 đến 12 tuổi), khẩu phần hiện nay đã đáp ứng ngưỡng khuyến nghị về protein, lipid và glucid cũng như nhu cầu khuyến nghị về năng lượng. Tuy nhiên, lượng protein và lipid trong khẩu phần ăn của học sinh tiểu học đều đang vượt xa mức nhu cầu khuyến nghị, đặc biệt ở khu vực thành thị là 205,3% và 133,4%, trong khi lượng chất xơ lại rất thấp chỉ đạt 19,1%.
Trong khi đó, khẩu phần ăn hiện nay của nhóm học sinh THCS (từ 12 đến 15 tuổi) và THPT (từ 15 đến 17 tuổi) đều chưa đáp ứng đầy đủ ngưỡng khuyến nghị về năng lượng. Trong khẩu phần ăn hiện nay của học sinh ở cả hai lứa tuổi này đều đã có đủ và thậm chí vượt ngưỡng protein khuyến nghị (126,7% đối với học sinh THCS và 118,5% đối với học sinh THPT), nhưng lượng lipid và glucid đều đang ở dưới ngưỡng khuyến nghị. Đặc biệt, mức đáp ứng về chất xơ ở hai nhóm lứa tuổi này cũng rất thấp ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn, với mức chung là 15,9% đối với học sinh THCS và 17,6% đối với học sinh THPT.
Video đang HOT
Ở lứa tuổi tiểu học, nhóm TCBP có xu hướng sử dụng tất cả các nhóm lương thực, thực phẩm ở mức cao hơn so với nhóm học sinh không TCBP, trong đó các lương thực khác, hoa quả, thịt, trứng sữa được sử dụng ở mức độ nhiều hơn rõ rệt. Ở lứa tuổi THCS, nhóm TCBP và không TCBP tiêu thụ phần lớn các thực phẩm với số lượng tương đương nhau, bao gồm cả nước ngọt. Học sinh THPT TCBP có xu hướng sử dụng đồ uống bổ sung có đường ít thường xuyên hơn so với học sinh THPT không TCBP (15,2% so với 20,7%).
GS.TS Phan Thị Kim, Chủ tịch Hội KHKT An toàn Thực phẩm Việt Nam cho biết, hiện trên thế giới tranh cãi rất nhiều về ăn đồ ngọt sẽ dẫn đến thừa cân béo phì. “Nhưng đồ ngọt chỉ là một yếu tố thôi. Như người ta nói vận động mới là quan trọng, ăn vào nhiều nhưng vận động nhiều thì không béo phì”, TS Kim cho biết.
Xuất hiện những nguy cơ mới từ lối sống gây thừa cân
Theo nghiên cứu, khẩu phần ăn của học sinh tiểu học chứa năng lượng và protein cao hơn rất nhiều so với ngưỡng khuyến nghị, nhưng mức độ tham gia các hoạt động thể lực lại thấp, cụ thể thời gian tĩnh trong ngày với 84,6% và 85,1% trẻ em có thời gian tĩnh trên 2 giờ trong một ngày, bao gồm cả ngày thường và ngày nghỉ, việc ngồi màn hình, bao gồm cả màn hình máy tính, ti vi, điện thoại,… có xu hướng tăng dần theo cấp học và ngày nghỉ thì nhiều hơn ngày thường và là yếu tố làm tăng nguy cơ mắc TCBP ở học sinh THCS lên 1,154 lần và ở học sinh tiểu học là 1,162 lần. Thói quen và tần suất sử dụng đồ uống có đường trên đường phố như nước mía, nước đá bào siro, trà sữa… là yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh TCBP của học sinh THPT lên 1,4 lần.
Từ số liệu này, TS Vũ Ngọc Quỳnh, chuyên gia dinh dưỡng cho rằng, mỗi phụ huynh hiện đại cần hiểu đúng về tình trạng TCBP ở trẻ em. “Chúng ta thấy tiêu thụ đồ uống có đường của học sinh tiểu học ở nông thôn cao hơn thành phố, tương tự đối với học sinh THCS và THPT, đặc biệt học sinh THPT ở nông thôn tiêu thụ gấp đôi lượng nước ngọt so với thành phố. Điều đó có nghĩa là ở nông thôn tiêu thụ đường cao hơn thành phố. Trong khi đó, tỷ lệ TCBP ở thành phố lại cao hơn ở nông thôn. Như người ta nói lối sống, vận động rất quan trọng, ăn nhiều nhưng vận động nhiều thì không sợ béo phì”, TS Quỳnh nhận định.
HIỂU MINH
Theo Tiền phong
Báo động tình trạng thừa cân béo phì ở học sinh tiểu học thành thị
41,9% số học sinh tiểu học thành thị đang thừa cân béo phì, chủ yếu do khẩu phần ăn uống giàu năng lượng và protein cao hơn nhiều so với ngưỡng khuyến nghị, nhưng mức độ tham gia các hoạt động thể lực lại thấp.
Đó là thông tin được đưa ra tại Hội thảo công bố kết quả nghiên cứu về "Tình trạng dinh dưỡng, khẩu phần, tần suất và thói quen tiêu thụ thực phẩm của học sinh tiểu học, THCS và THPT ở một số tỉnh, thành Việt Nam" do Viện Dinh dưỡng Quốc gia (Bộ Y tế) tổ chức.
Theo nghiên cứu, học sinh tiểu học có khẩu phần ăn uống giàu năng lượng và protein thậm chí cao hơn nhiều so với ngưỡng khuyến nghị, nhưng mức độ tham gia các hoạt động thể lực lại thấp, dẫn đến tỷ lệ thừa cân, béo phì ở học sinh tiểu học khá cao, nhất là ở khu vực thành thị.
Cụ thể, trong khi học sinh tiểu học ở thành phố có tỷ lệ béo phì là 22,7% thì học sinh ở vùng nông thôn chỉ chiếm 7,4%. Khi tính chung, tình trạng thừa cân béo phì của học sinh tiểu học thành thị chiếm 41,9% và nông thôn 17,8%.
Đối với học sinh THCS, học sinh thành thị thừa cân chiếm 20,9%, trong khi học sinh nông thôn là 7,9%. Tuy nhiên, học sinh THCS vùng nông thôn lại có tỷ lệ thấp còi lên tới 20,1%, còn học sinh thành thị là 3,8%. Tương tự, học sinh THCS vùng nông thôn có tỷ lệ gầy còm lên tới 15,6%, học sinh thành thị là 3,4%.
Đối với học sinh THPT, tỉ lệ thừa cân béo phì thấp hơn so với học sinh cấp tiểu học và THCS. Nhưng học sinh THPT vùng thành thị vẫn chiếm tỉ lệ cao hơn so với học sinh vùng nông thôn, lần lượt là 13,5% và 6,2%. Tỷ lệ thấp còi ở học sinh THPT nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ cao 14,9% và học sinh thành thị là 8,6%.
Riêng 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP. HCM, tỷ lệ thừa cân trẻ em từ 6 - 11 tuổi ở mức cao và có xu hướng tăng nhanh qua các năm. Cụ thể, tại TP. HCM, tỷ lệ thừa cân béo phì năm 1996 là 12,2% thì đến năm 2009 đã tăng lên 42,3%. Tại Hà Nội, năm 1995, tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì là 3,3% nhưng đến năm 2011 đã tăng lên 40,7%.
Báo cáo của nhóm nghiên cứu đã đưa ra những phát hiện quan trọng cho thấy, tỷ lệ thừa cân béo phì giảm dần theo độ tuổi của học sinh và có khác biệt lớn giữa các khu vực.
Nhóm thừa cân béo phì có xu hướng tiêu thụ nhiều thực phẩm giàu chất đạm trong khi đó nhóm không thừa cân béo phì lại có xu hướng tiêu thụ các loại đồ uống có đường sản xuất công nghiệp và các thực phẩm có đường...
Nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố liên quan đến tình trạng thừa cân béo phì ở trẻ, bao gồm tuổi, giới tính, khu vực sinh sống, điều kiện kinh tế xã hội và trình độ văn hóa của bố mẹ...
Ngoài ra, chế độ ăn uống và sinh hoạt cũng liên quan trực tiếp đến tình trạng này. Đặc biệt, việc thường xuyên ngồi trước màn hình, sử dụng nhiều đồ uống có đường chế biến và bán trên đường phố (nước mía, nước đá bào siro, trà sữa...) làm tăng nguy cơ thừa cân béo phì.
Theo nghiên cứu, tần suất sử dụng đồ uống có đường trên đường phố là một yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh thừa cân béo phì của học sinh trung học phổ thông lên 1,4 lần.
Được biết, nghiên cứu được tiến hành trong 12 tháng (năm 2017 - 2018) với trên 5.028 học sinh từ 7 đến 17 tuổi tại 75 trường học tại: TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Thái Nguyên, Nghệ An và Sóc Trăng.
CHÂU ANH
Theo baodansinh
60 tuổi mới thể dục cũng có lợi như tập từ tuổi thiếu niên Theo một nghiên cứu mới, chẳng bao giờ quá trễ để bắt đầu tập thể dục. Dù bạn đang ở tuổi tráng niên hay trung niên, tập thể dục cũng đem lại lợi ích như nhau. Tập thể dục tuổi trung niên gặt hái lợi ích tương đương với thể dục từ khi còn trẻ - SHUTTERSTOCK Khoảng 80% người Mỹ không hoạt...