‘Mắt thần’ truy tìm B52
Trước khi Mỹ dùng B52 tấn công hủy diệt Hà Nội, lực lượng radar đã phát hiện và báo động sớm trước 35 phút, tạo điều kiện cho sở chỉ huy nắm chắc tình hình, sử dụng lực lượng chiến đấu.
Nguyên là đài trưởng đài radar P35, thuộc Đại đội 45 ( Trung đoàn 291) – đơn vị đầu tiên phát hiện, thông báo sớm B52 bay vào Hà Nội đêm 18/12/1972, đại tá Nghiêm Đình Tích cho rằng công đầu trong chiến thắng Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không thuộc về bộ đội radar phòng không.
Theo đại tá Tích, 19h ngày 18/12/1972, ông cùng các trắc thủ Phạm Hoàng Cầu, Nguyễn Văn Xích phát hiện ba dải nhiễu B52. Ngay lập tức, ông báo cáo cấp trên là B52 địch có khả năng vào miền Bắc. Trung đoàn trưởng Đỗ Năm báo cáo về tổng trạm radar Quân chủng Phòng không Không quân “B52 đang bay vào Hà Nội”. Ngay sau đó, Cục Tác chiến (Bộ Tổng tham mưu) đã báo cáo lên Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, đồng thời phát lệnh báo động cho Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và một số tỉnh miền Bắc.
“Đúng 19h40, B52 và máy bay chiến thuật đã đánh liên tiếp 3 đợt vào các sân bay Kép, Nội Bài, Gia Lâm, Hòa Lạc, Yên Bái và một số khu vực”, ông Tích kể và khẳng định bộ đội radar đã không để tổ quốc bị bất ngờ trước chiến dịch tập kích đường không của địch, tạo điều kiện cho các binh chủng đánh thắng B52.
Đại tá Nghiêm Đình Tích khẳng định lực lượng radar đã phát hiện và báo động sớm cho Hà Nội B52 sẽ tấn công trước 35 phút. Ảnh: Hoàng Thùy.
Đại tá cho hay, trong chiến dịch 12 ngày đêm, không quân Mỹ gây nhiễu ghê gớm hơn nhiều so với chiến tranh phá hoại lần thứ nhất. Họ gây nhiễu từ các hạm tàu, máy bay chuyên gây nhiễu ngoài đội hình EB66 (của Không quân), EA6B, EC121 (của Hải quân), nhiễu của các loại máy bay chiến thuật. Đặc biệt mỗi B52 có 15 máy gây nhiễu, 2 máy phóng nhiễu giấy bạc. Một tốp B52 gồm ba chiếc, tổng cộng có 45 máy tạo thành nhiễu dày đặc, đan xen, công suất rất lớn, phạm vi rất rộng.
Thời kỳ này hầu hết đài radar, nhất là đài radar cảnh giới, dẫn đường, điều khiển tên lửa, ngắm bắn của pháo cao xạ và radar trên máy bay MIG21 của Việt Nam đều bị nhiễu nặng, rất khó phát hiện được mục tiêu… Mặt khác địch còn tăng cường gây nhiễu, đánh phá đài radar. Chúng sử dụng B52 đánh đêm, trong khi lực lượng đánh đêm của Việt Nam rất mỏng, việc quan sát phát hiện B52 bằng mắt của phi công rất hạn chế.
“Có lúc đài radar cảnh giới báo cáo tất cả 360 độ đều nhiễu nặng, không thể phát hiện mục tiêu. Địch âm mưu bịt mắt chúng ta”, ông Tích kể. Không thể ngồi im nhìn địch che mắt, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Binh chủng đã tập trung chỉ đạo, tổ chức các hội nghị chống nhiễu B52.
Từ ba trận đánh thành công ở Vinh – Bến Thủy, Thanh Hóa, Hải Phòng, địch chủ quan, xem thường lực lượng phòng không của Việt Nam. Chúng huênh hoang động viên phi công rằng khi B52 vào đánh Hà Nội thì hệ thống nhiễu điện tử đã vô hiệu hóa lực lượng phòng không Bắc Việt Nam. Đánh Hà Nội sẽ như một cuộc dạo mát và sẽ trở về an toàn.
Nhưng địch đã sai lầm. Trên cơ sở khẳng định B52 vào đánh Hà Nội từ hai hướng Tây Nam và Đông Nam, Bộ Tư lệnh Quân chủng điều Trung đoàn radar 291 của ông Tích từ Hải Phòng vào Nghệ An, vừa đảm bảo cảnh giới vừa tác chiến phòng không trong khu vực, phát hiện B52 trên hai hướng để báo động B52 từ xa cho Hà Nội, Hải Phòng.
Bộ đội radar của đại đội 45. (Đài trưởng Nghiêm Đình Tích ngồi sau cùng, mặc áo trắng).
Binh chủng radar còn được bổ sung lực lượng, phương tiện và điều chỉnh đội hình mạng radar trên miền Bắc tạo thành trường radar khép kín, vừa có khả năng chống nhiễu tốt, vừa đảm bảo phát hiện liên tục mục tiêu trên các tầng không. Đội hình chiến đấu này được bố trí kết hợp chặt chẽ giữa tuyến và cụm, tập trung lực lượng vào hướng, khu vực chủ yếu, xen kẽ giữa máy cũ và máy mới, giữa khí tài thô sơ với khí tài hiện đại, giữa các đài radar có dải tần khác nhau, giữa đài radar với vọng quan sát mắt. Các đại đội radar dẫn đường vòng ngoài kết hợp với mạng radar ở vòng trong làm tăng khả năng chống nhiễu, bảo đảm dẫn đường cho không quân đánh B52.
Video đang HOT
“Đội hình radar miền Bắc được bố trí tối ưu và khoa học, đúng tư tưởng chỉ đạo của thiếu tướng Vương Thừa Vũ, người chỉ đạo chiến thuật của Bộ Quốc Phòng là trong tác chiến phòng không hiện đại, kể cả trong điều kiện chiến tranh điện tử và vũ khí công nghệ cao phát triển, đội hình radar phải được bố trí để vừa có lực lượng phát hiện địch từ phía chính diện, vừa có lực lượng phát hiện từ phía cạnh sườn và phía sau”, ông Tích kể.
Ngoài biện pháp chống nhiễu tầm chiến dịch thì Bộ tư lệnh phòng không còn tổ chức chống nhiễu tầm chiến thuật. Đây là tổng hợp các động tác chống nhiễu về kỹ thuật kết hợp với kinh nghiệm cụ thể của từng phiên ban, kíp chiến đấu và của từng đài trưởng, sĩ quan điều khiển, trắc thủ, các chiến sĩ thông tin vô tuyến.
“Tôi có thuận lợi là được học về nguyên lý điều khiển radar do các chuyên gia Liên Xô đào tạo từ năm 1968-1969. May mắn hơn là trước đó chúng tôi từng phát hiện ra B52. Trong năm 1967, địch mở chiến dịch vào Hà Nội cũng gây nhiễu rất nặng, chúng tôi đã xây dựng được quy trình chống nhiễu, phát hiện B52 rất tốt”, đại tá Tích tâm sự.
Trong chiến dịch 12 ngày đêm, đài radar của ông Tích có 6 máy thu sóng nhưng đều bị nhiễu. Qua kinh nghiệm, ông và đồng đội chỉ sử dụng một máy thu, 2 ăng ten trên và dưới hợp lý để chế áp nhiễu. Lúc này, trên màn hình chỉ còn dải nhiễu B52 rất nhẹ, nổi lên 3 điểm sáng bằng đầu tăm. Như vậy, đội đã phát hiện ra có B52.
“Mắt thần” radar không để tổ quốc bị bất ngờ trước cuộc tập kích bằng đường không của Mỹ năm 1972. Ảnh tư liệu.
Nhờ những biện pháp trên, trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, Bộ Tư lệnh Binh chủng radar đã phát hiện và xác định chính xác B52, báo động sớm B52 tấn công trong trận đầu, đêm đầu cho Hà Nội 35 phút, các đêm sau từ 50 đến 60 phút. Do được bảo đảm radar tốt, các cấp chỉ huy chiến dịch – chiến lược đã nắm chắc tình hình địch, chiến đấu kịp thời, chính xác, các lực lượng phòng không, không quân được chủ động đánh B52.
Nguyên đài trưởng radar P35 cho hay, bằng sự phối hợp hiệp đồng với radar, bộ đội tên lửa phòng không đã bắn rơi B52 nhiều nhất, ngăn chặn âm mưu của Mỹ đưa Hà Nội, miền Bắc Việt Nam về thời kỳ đồ đá. Chỉ tính trong số 34 chiếc B52 bị bắn rơi thì bộ đội tên lửa phòng không đã bắn rơi 29 chiếc, trong đó có 16 chiếc rơi tại chỗ. Bộ đội không quân xuất kích 24 lần, bắn rơi 7 máy bay địch, trong đó có 2 chiếc B52, 4 chiếc F4-D và một chiếc RA5C.
Sau thất bại trong chiến dịch tập kích đường không chiến lược cuối năm 1972, một học giả người Mỹ thừa nhận, một trong ba nguyên nhân dẫn đến tổn thất của máy bay B52 là các radar của Bắc Việt Nam có thể vô hiệu hoá các biện pháp đối phó điện tử của B52. Người này cũng thừa nhận “năm 1972, sau một thời gian xây dựng, Bắc Việt Nam đã có hệ thống phòng không mạnh nhất thế giới, đến mức nhiều người tin rằng các máy bay ném bom hạng nặng át chủ bài B52 của Mỹ khó mà sống sót”.
Theo VNE
"Không đánh giỏi là... chết!"
"Trước hết phải có lòng yêu nước, nhưng ở chiến trường, đánh giỏi là điều kiện tiên quyết để sống. Bộ đội ta đã làm được", PGS. TS Nguyễn Đình Lê nhấn mạnh khi nói về điều "chỉ Việt Nam làm được" qua chiến thắng Điện Biên Phủ trên không.
PGS.TS Nguyễn Đình Lê hiện là Chủ nhiệm bộ môn Lịch sử Cận - hiện đại, trường ĐH KHXH&NV - ĐH Quốc gia Hà Nội.
Sau những thất bại trên chiến trường miền Nam, Hoa Kỳ đã quyết định dùng đến quân bài chiến lược là B52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng. Ông có thể nói gì về tham vọng của đế quốc Hoa Kỳ trong trận chiến quyết định này?
Theo tôi, đánh phá Hà Nội bằng B52 với Hoa Kỳ là cuộc thử lớn, với mục tiêu đánh cho chúng ta kiệt quệ đi chứ không hẳn đánh để tạo điều kiện cho việc ký hiệp định, bởi lẽ nếu không đánh, ta vẫn tiến lên giành thắng lợi cuối cùng... Và trước sau Hoa Kỳ cũng vẫn ký hiệp định Paris. Hoa Kỳ đánh để "Hà Nội không còn 2 viên gạch dính vào nhau", để 2 thập kỷ sau cũng chưa khôi phục lại được. Sau nữa, đánh để lên dây cót cho chính quyền Sài Gòn, để bảo lãnh cho Thiệu với nghĩa "cứ ký hiệp định đi, có gì còn Hoa Kỳ đằng sau" nữa.
Có thể có 1 khả năng nữa là Hoa Kỳ đánh trận này như một trận phục thù. Tôi mới đi Hawai để xem xét lại trận Trân Châu Cảng thì trong chừng mực nào đó thấy có điểm tương tự. Nhật đánh Trân Châu Cảng, Hoa Kỳ mang bom nguyên tử trả thù.
Không kể Tổng thống Gerald Ford, đã có 4 đời Tổng thống Hoa Kỳ sa lầy trong cuộc chiến tại Việt Nam và Hoa Kỳ gần như đã huy động hết tiềm lực của mình. Một nước Hoa Kỳ lớn như thế, chưa từng thua ai trong 200 năm lịch sử, một đất nước cao ngạo, ngay cả khi thương lượng với Liên Xô, với Trung Quốc bao giờ cũng muốn ở thế thượng phong, vậy mà 20 năm sa lầy ở Việt Nam, không thể thắng được. Vì thế, Hoa Kỳ muốn rửa nhục, phục thù.
PGS.TS Nguyễn Đình Lê: "Nếu chỉ bắn rơi 10 chiếc B52 thì cũng đã là chuyện động trời".
Đối diện với âm mưu đánh phá Hà Nội bằng B52, phía ta có hoàn toàn chủ động không, thưa ông?
Khi Hoa Kỳ bắt đầu đánh phá lại miền Bắc là ta có phần bị động - có lý do chắc chắn để nói vậy. Ta đánh 3 chiến dịch lớn ở miền Nam vào cuối tháng 3/1972 thì chỉ mấy ngày sau Hoa Kỳ đánh phá miền Bắc. Thực sự là ta bất ngờ. Tất cả hệ thống phòng thủ lớn nhất của Bắc Bộ rút hết vào khu 4. Tháng 6 ta mới bắt đầu bố trí lại lực lượng phòng không bảo vệ Hà Nội
Có điều chắc chắn là Hoa Kỳ tin Việt Nam không bắn được B52. Có 2 sự kiện để Hoa Kỳ tin điều này: Năm 1970, khi lính biệt kích Hoa Kỳ nhảy dù xuống thị xã Sơn Tây - trung tâm "thủ đô bộ đội" ở đó - hòng cứu phi công, thì lực lượng ra đa cảnh vệ quốc gia của ta không phát hiện kịp; Vụ Hoa Kỳ dùng B52 rải thảm Hải Phòng (16/4/1972) ta không đối phó được, không bắn rơi máy bay nào dù đã sử dụng rất nhiều SAM 2.
Từ ngày 18/12/1972, khi ta chủ động thực sự nhiều thứ thì mọi chuyện đã khác. Khi đó, Bộ Chính trị đặt quyết tâm cần ít nhất bắn rơi tại chỗ một máy bay B52. Nhưng trong chiến dịch Line Backer II, cục diện đã khác. Ta đã bắn rơi hàng chục máy bay B52. Hoa Kỳ nói không phải 34 chiếc đâu, mà 15 chiếc. Nhưng nếu rơi 15 máy bay chiến lược của Hoa Kỳ như họ nói thì lực lượng phòng không của miền Bắc đã quá giỏi rồi. Thế giới khi đó chưa ai bắn được B52. Chỉ ở Việt Nam mới làm được điều đó - khủng khiếp đấy chứ.
Sau những "lỗ hổng chết người" ở các trận Sơn Tây, Hải Phòng như ông nói ở trên, tại sao ta có sự thay đổi nhanh đến như vậy trong trận Điện Biên Phủ trên không?
Đó là cái giỏi vượt bậc của lực lượng vũ trang của ta. Trận ở Hải Phòng, có thể nói chiến tranh từ xa của ta không tốt, biển ta không giữ được. Nhưng khi Hoa Kỳ đưa máy bay vào Hà Nội, đi sâu vào đất liền hàng trăm cây số, ra đa hoàn toàn có thể biết được. Sau này có thể nói đơn giản, ta kết hợp giữa phương tiện hiện đại và thô sơ để có thể phát hiện máy bay địch.
Và một sự thật, 4 ngày sau khi B52 ném bom, ta phát hiện ra 1 quy luật, máy bay Hoa Kỳ xuất phát từ 2 nơi, từ Udon và Guam, tập kết ở một số địa bàn cố định sau đó sử dụng chế độ lái tự động để thả bom. Bộ tội ta phát hiện ra những điểm đường chéo giao nhau và dồn hỏa lực phòng không vào "tọa độ chết". Ngày lực lượng phòng không của ta bắn rơi nhiều B52 nhất là nhờ có "bí quyết" này. Đó là chuyện rất mẹo mà chỉ Việt Nam mới làm được.
Với sức hủy diệt của B52 cùng lực lượng hùng hậu mà Hoa Kỳ huy động, hẳn người dân miền Bắc ở thời điểm đó cũng "tâm trạng", thưa ông?
Lo thì ai... chẳng lo. Trước đó địch còn rải truyền đơn nói rằng máy bay này ở tít trời cao, trên 11 km vẫn không ai thấy được, không ai nghe tiếng động cơ mà chỉ biết B52 đến bởi khói và bom dày đặc. Sau này ở chiến trường, chứng kiến B52 đánh thực sự thì kinh khủng vì khoảng 30 tấn bom cùng nổ trong khoảng 3-10 giây, trong khi phải 7-8 chiếc tiêm kích muốn ném 30 tấn bom phải cần khoảng 1 giờ. Tôi chứng kiến một đợt ném ở khoảng cách 3km mà thấy vô cùng khủng khiếp.
Nhưng với thắng lợi đầu tiên, khi chiếc máy bay rơi ở Bắc Hà Nội thì dân rất tin vì một loại mà chưa ai bắn được, chưa từng chiếc nào rơi trên thế giới mà ta đã bắn được.
Phi công Hoa Kỳ thừa nhận, sau một vài ngày đánh phá Hà Nội, khi xuất phát tại sân bay để tham chiến, họ rất hoang mang vì những máy bay xuất phát trước đó đã không trở về nữa?
Mới đầu thì họ không tin việc B52 bị bắn hạ, nhưng sau đó thì phải tin. Lúc ấy, chính những người lính này trở thành những người lính phản chiến cuối cùng trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Trong các hội thảo vừa qua ông có đề cập việc con số B52 rơi ta công bố có khác với Hoa Kỳ, nhưng không kể đến sự khác nhau về con số thì các học giả Hoa Kỳ và quốc tế đánh giá thế nào về trận chiến này?
"Chỉ có Việt Nam làm được như vậy" là nhận định của nhiều người. Cụm từ "Điện Biên Phủ trên không" chính là do một nhà báo nói ra và đó là một khái quát rất đúng. Báo chí Hoa Kỳ thừa biết B52 hiện đại đến mức nào và khi Tổng thống Hoa Kỳ hay Bộ Tư lệnh không quân Hoa Kỳ nói đây chỉ là cuộc "dạo chơi" thì không phải không có lý. Nếu ta bắn rơi chỉ 10 chiếc thì cũng đã là chuyện động trời. Máy bay do thám U2 mà mãi Liên Xô mới bắn hạ được 1 chiếc, vậy mà không ngờ B52 lại bị bắn nhiều như thế. Họ phải thừa nhận điều đó, nhưng số liệu họ công nhận ít hơn.
Điều cốt lõi nào làm nên chiến thắng của Điện Biên Phủ trên không và có phải Hoa Kỳ đã không đánh giá hết khả năng của bộ đội ta?
Suy đến cùng, trụ cột trong trận này là của lực lượng phòng không - không quân, đây là lực lượng sống còn thực sự. Không thể nói Hoa Kỳ không tài, nhưng đối phương của họ vẫn tài hơn. Bộ đội ta không phải chỉ dũng cảm mà muốn sống nhất định phải giỏi. Trước hết phải có lòng yêu nước nhưng ở chiến trường, đánh giỏi là điều kiện tiên quyết để sống. Bộ đội ta đã làm được. Mà dường như đó là văn hóa của ta, bị chèn ép đến cùng đường thì làm được những việc phi thường. Trong hoàn cảnh cuối cùng nhất định phải nghĩ ra cách đánh không thì chết.
Chuyên gia Liên Xô xem xét xác máy bay B52 bị bắn rơi tại Hà Nội.
Có khi nào ông chia sẻ, cắt nghĩa với học giả Hoa Kỳ về thất bại của Hoa Kỳ trong trận Điện Biên Phủ trên không?
Có đồng nghiệp Hoa Kỳ yêu cầu tôi trả lời thẳng thật câu hỏi vì sao họ thua. Tôi nói, Hoa Kỳ quá kiêu ngạo, nghĩ mình quá văn minh. Máu kiêu ngạo của Hoa Kỳ làm cả Sài Gòn tin. Tận mùa xuân 1975, khi ta đã giải phóng toàn bộ Tây Nguyên mà họ vẫn tin, bảo ta không đánh nổi Đà Nẵng, không đánh nổi Sài Gòn đâu. Như vậy là rất không hiểu đối phương. Nixon, Hoa Kỳ đã phải trả giá rất đau vì 4 đời tổng thống sa lầy và thất bại ở Việt Nam, cho cả danh dự của nước Hoa Kỳ.
Nếu không có chiến thắng này, diễn biến bàn đàm phán ở Hội nghị Paris sẽ thế nào, thưa ông?
Hoa Kỳ vẫn sẽ ký thôi. Nixon định làm cú lừa cả 2 bên sau hiệp định, Sài Gòn bị lừa, Hà Nội bị lừa. Hoa Kỳ lấy được tù binh ra rồi đánh tiếp. Đến khi đón được hơn 400 phi công trong đợt 2 ở Gia Lâm, Hoa Kỳ làm chiến dịch Duck Hook (Vịt đá). Hoa Kỳ ký Hiệp định nhưng với Tổng thống R.Nixon thì chưa chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam đâu.
Tư liệu mới tiết lộ gần đây cho thấy Tổng thống R.Nixon muốn thực hiện chiến dịch Duck Hook ngay sau khi Hoa Kỳ nhận hết số tù binh ta trao trả ở Gia Lâm (29/3/1972). H.Kissinger muốn phát động chiến dịch đó muộn hơn vào dịp ông ta nhận xong giải thưởng Nô-ben hòa bình! Đấy, ý đồ của người đứng vị trí cao nhất trong hệ thống quyền lực của Hoa Kỳ lúc đó tính toán như vậy đấy.
Còn nếu Hoa Kỳ muốn gây sự đánh miền Bắc thì dễ lắm, không thiếu gì lý do! Có điều tại sao Hoa Kỳ không thực hiện được là vì vụ Watergate đã nhấn chìm R. Nixon. Và vụ đó cũng nhấn chìm luôn một tham vọng muốn đánh lại miền Bắc.
Xin cảm ơn ông!
Theo Dantri
Người lính già với vở rối nước "đánh B52" Đào Thục - một làng quê ở ngoại ô Hà Nội thuộc huyện Đông Anh - có phường rối nước trên 300 năm tuổi. Bên cạnh các vở diễn truyền thống của làng như "Ba khí giáo trò", "Lên võng xuống nước", "Trâu chui ống"... từng mê hoặc bao lớp người, nay có thêm vở mới: "Đánh B52". Tiểu Đoàn trưởng Đinh Thế...