Mang thai hộ – từ nhân đạo bị biến tướng đẻ thuê
Luật hôn nhân gia đình cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, song có những kẽ hở bị lợi dụng thành đẻ thuê như quy định thân thích ba đời, chi phí lớn.
Ngày 8/4, Vụ Sức khỏe bà mẹ và trẻ em, Bộ Y tế, yêu cầu các cơ sở thực hiện kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, rà soát quy trình chuyên môn kỹ thuật, quy trình quản lý, tuân thủ quy định pháp luật trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản. Các bệnh viện tăng cường kiểm tra, giám sát nội bộ, không để cán bộ nhân viên tham gia, dính líu, tiếp tay cho các đường dây buôn bán tinh trùng, noàn, phôi, “đẻ thuê” hoặc thực hiện lựa chọn giới tính thai nhi.
“Sẽ xử lý nghiêm nếu phát hiện có sai phạm, kể cả xem xét bãi bỏ quyết định công nhận cơ sở khám chữa bệnh đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ”, theo công văn Bộ Y tế gửi các bệnh viện.
Trao đổi với VnExpress , ông Nguyễn Đức Vinh, Vụ trưởng Sức khỏe bà mẹ và trẻ em, Bộ Y tế, nhìn nhận tình trạng tồn tại và hoạt động của những đường dây mua bán tinh trùng, noãn, phôi, đẻ thuê, ngày càng phức tạp. Một số vụ việc bị cơ quan chức năng điều tra, khởi tố. Mới nhất, ngày 7/4, Phòng Cảnh sát hình sự Công an Hà Nội điều tra về hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại đối với Phạm Ngọc Thảo, 40 tuổi, Nguyễn Anh Thư, 29 tuổi và Nguyễn Danh Hòa, 59 tuổi – một bác sĩ.
Tại Việt Nam, Luật hôn nhân gia đình 2014 cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại, giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Mang thai hộ bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
Pháp luật không cho phép mang thai hộ vì mục đích thương mại, được định nghĩa là một phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác.
Pháp luật quy định việc mang thai hộ phải được thông qua bản thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ trên cơ sở cùng tự nguyện. Họ cam kết người mang thai hộ chỉ là người đẻ thuê, con là của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Đứa bé được bàn giao cho vợ chồng nhờ mang thai hộ ngay khi sinh ra để đi làm giấy khai sinh. Về cả pháp lý lẫn sinh học, đứa bé là con của người nhờ mang thai hộ, chứ không phải của người mang thai hộ.
Tiến sĩ Nguyễn Huy Quang, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế, nhấn mạnh mang thai hộ có những quy định rất chặt chẽ, mục đích kiểm soát việc mang thai hộ, ngăn chặn vấn đề thương mại hóa.
Người mang thai hộ phải đáp ứng những điều kiện nhất định, là phải đang ở độ tuổi sinh đẻ, được khám sức khỏe và có khả năng mang thai hộ. Bên cạnh đó, người mang thai hộ phải có cùng huyết thống đối với chồng, hoặc vợ trong phạm vi 3 đời và phải cùng hàng.
“Quy định cùng hàng là để tránh tình trạng mẹ mang thai hộ con, bà mang thai hộ cháu. Điều này liên quan đến vấn đề đạo đức xã hội”, ông Quang nói.
Người mang thai hộ nếu có chồng, phải được người chồng đồng ý, và chỉ được phép mang thai hộ một lần, mục đích đảm bảo an toàn và sức khỏe người mẹ. Thông tin về người mang thai hộ được lưu trữ trên máy tính và kết nối dữ liệu với các trung tâm khác, tránh việc người mang thai hộ đã đăng ký làm tại trung tâm này mà sang trung tâm khác đăng ký.
Người nhờ mang thai hộ phải đáp ứng các điều kiện nhất định. Đó là người không có khả năng mang thai, được cơ sở y tế xác định nguyên nhân bệnh lý là không mang thai được.
Các bệnh viện được Bộ Y tế cho phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải có hội đồng tư vấn chịu trách nhiệm về lĩnh vực chuyên môn. Hội đồng gồm nhiều chuyên gia về y tế giúp xác định người nhờ mang thai hộ không thể mang thai, xác định người mang thai hộ có khả năng mang thai hay không; chuyên gia luật xác định tính pháp lý của việc mang thai hộ, để đảm bảo hai bên tự nguyện, cùng huyết thống, cùng hàng và có thỏa thuận giữa 2 bên.
Bệnh viện phải có chuyên gia tâm lý để giúp đỡ cho cả người nhờ và người mang thai hộ, tư vấn trước những vấn đề tâm lý có thể diễn ra trong quá trình mang thai, sinh con, hay những rủi ro có thể xảy ra, như tai biến sản khoa, tử vong…
Video đang HOT
Luật pháp chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, không cho phép mang thai hộ vì mục đích thương mại. Ảnh: Sohu
Ông Quang nhận định, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo có quy định chặt chẽ, song vẫn có những “kẽ hở” . Thực tế xảy ra tình trạng mang thai hộ vì mục đích thương mại, và chính bác sĩ có thể là những người “tiếp tay” để thực hiện mang thai hộ với một số đối tượng không đủ điều kiện.
“Nếu cả bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ không vì mục đích nhân đạo, thực hiện mang thai hộ ở cơ sở y tế không có giấy phép, không đủ điều kiện, thì rất khó để cơ quan chức năng kiểm soát”, ông Quang nói.
Ông Quang ví dụ, bác sĩ Nguyễn Danh Hòa, người thực hiện hỗ trợ sinh sản cho hai ca mang thai hộ bị công an điều tra ngày 7/4 trong vụ án nêu trên, đã thôi làm việc tại một bệnh viện ở Hà Nội từ ngày 20/8/2020. Từ đó đến nay, bác sĩ Hòa muốn hành nghề tiếp thì phải đăng ký hành nghề tại sở y tế sở tại, cụ thể ở đây là Sở Y tế Hà Nội.
Luật chỉ cho phép những người có quan hệ thân thích 3 đời cùng hàng với cặp vợ chồng nhờ mang thai được phép mang thai hộ, như vậy sẽ rất hạn chế đối tượng được phép mang thai hộ và tạo ra sự bất bình đẳng cho các trường hợp không có người thân thích cùng hàng. Ngoài ra, việc thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đòi hỏi chi phí lớn cũng là một trở ngại đối với những cặp vợ chồng không thể có con nhưng cũng không có tiền để thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai hộ. Những điều này có thể cũng sẽ gây ra hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại, hoặc tình trạng đẻ thuê bằng cách quan hệ trực tiếp để có con.
Theo chuyên gia, việc đầu tiên hạn chế tình trạng mang thai hộ vì mục đích thương mại là tất cả các bên cần tự giác, thực hiện đúng theo quy định pháp luật.
Hiện, một số bệnh viện được phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo gồm các bệnh viện Phụ sản Trung ương, Đa khoa Tâm Anh, Đa khoa Trung ương Huế, Phụ sản Từ Dũ TP HCM, Hùng Vương TP HCM, Mỹ Đức và một số bệnh viện khác…
Ngày 7/4, Nguyễn Anh Thư, Phạm Ngọc Thảo và bác sĩ khoa sản Nguyễn Danh Hòa đang bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an Hà Nội điều tra về hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại. Theo đó, đầu năm 2019, một cặp đôi không phải vợ chồng nhưng muốn có con chung nên tìm người mang thai hộ. Cặp đôi thuê Thư và Thảo mang thai hộ với giá 400 triệu đồng một người, riêng Thảo hưởng lợi thêm 80 triệu đồng. Sau thỏa thuận, bác sĩ Hòa thực hiện cấy 2 phôi vào tử cung Thư và Thảo.
Xôn xao chuyện cụ ông 72 tuổi ở Hà Nội "dùng cân đếm tiền" lấy đến 11 vợ, trẻ nhất mới 20 tuổi: Có vi phạm pháp luật?
Lấy đến 11 vợ nhưng chưa đăng ký kết hôn với ai, cụ ông 72 tuổi "đệ nhất đào hoa" này có vi phạm Luật hôn nhân gia đình hay không?
Thông tin cụ Dương Văn C. (sinh năm 1949), ngụ ở thôn Thắng Chí, (xã Minh Trí, Sóc Sơn, Hà Nội) tự nhận mình là người đào hoa, đa tình khi có đến 11 vợ, tuy nhiên chưa từng đăng kí kết hôn với ai khiến nhiều người đọc xôn xao, bàn tán.
Được biết, cụ C. còn được đồn là giàu có nhất vùng. Khi được hỏi, cụ trả lời báo chí: "Tôi chưa bao giờ biết mình có bao nhiêu tiền, cứ có tiền là tôi lại ném vào tủ, tôi cũng chẳng đếm kỹ, có thời điểm tôi còn đem cân xem được bao nhiêu cân".
Cụ ông Dương Văn C. (Ảnh: Người Đưa Tin)
Người thì ngạc nhiên trước sức hút "đáng nể" của cụ ông này khi tuổi đã cao mà nhiều cô gái trẻ vẫn... mê mệt. Người lại tỏ ra "bán tín, bán nghi", song cũng có nhiều người thì thắc mắc, vậy việc cụ ông U70 này có đến 11 vợ thì liệu có vi phạm luật hôn nhân gia đình hay không?
Giải đáp về vấn đề này, luật sư Đặng Văn Cường - Đoàn luật sư TP.Hà Nội cho rằng: "Có lẽ đây là người đàn ông đào hoa nhất Việt Nam từ trước đến nay. Mặc dù ông ấy chưa đăng ký kết hôn với người phụ nữ nào nhưng nếu có kiện tụng thì cơ quan chức năng vẫn có thể xác định ông ấy vi phạm hôn nhân một vợ một chồng và có thể xem xét xử lý hành chính hoặc hình sự".
Thạc sĩ, luật sư Đặng Văn Cường - Đoàn luật sư TP.Hà Nội
Luật sư Cường cho biết, pháp luật Việt Nam ghi nhận nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng từ Luật hôn nhân đầu tiên năm 1959. Chỉ có một số trường hợp quan hệ hôn nhân được xác lập trước 1959 hoặc cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc năm 1978 theo Thông tư 78 thì được phép thừa nhận quan hệ hôn nhân đa thê. Ngoài ra, các trường hợp khác đã có vợ có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác là vi phạm hôn nhân một vợ một chồng, tùy vào tính chất mức độ hành vi, tùy thuộc vào hậu quả xảy ra mà người vi phạm có thể bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Sau khi được pháp luật thừa nhận mà ông này vẫn tiếp tục chung sống như vợ chồng với người phụ nữ khác thì sẽ bị xử phạt hành chính, trường hợp bị phạt hành chính rồi nhưng vẫn cố tình vi phạm hoặc vi phạm hôn nhân một vợ một chồng gây hậu quả nghiêm trọng thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Theo Thông tư 01/2001/TTLTT của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình thì những trường hợp hai bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn vẫn được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tế, quyền và nghĩa vụ được áp dụng như hôn nhân hợp pháp như sau:
Trường hợp thứ nhất, hai bên nam nữ đủ điều kiện kết hôn, không vi phạm trường hợp cấm kết hôn mà sống chung với nhau như vợ chồng, trước ngày 03/01/1987 (Trước ngày luật hôn nhân năm 1986 có hiệu lực pháp luật). Trường hợp này pháp luật mặc nhiên công nhận là quan hệ hôn nhân hợp pháp mà không cần phải đăng ký kết hôn. Quan hệ hôn nhân của những cặp vợ chồng này được tính từ thời điểm hai bên bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng.
Trường hợp thứ hai, hai bên nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng sau thời điểm Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực đến trước ngày 01/01/2001. Đối với những trường hợp nam nữ sống chung với nhau kể từ sau khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đến trước thời điểm Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, mặc dù họ có đủ điều kiện theo quy định của luật để kết hôn nhưng vẫn chưa làm thủ tục đăng ký thì bắt buộc phải làm thủ tục đăng ký kết hôn lên cơ quan có thẩm quyền để được công nhận là vợ chồng hợp pháp.
Tuy nhiên trong thời điểm mà họ đăng ký kết hôn sẽ không được mặc định là thời điểm họ được xác lập mối quan hệ vợ chồng mà quan hệ của họ vẫn được công nhận kể từ ngày họ sống chung với nhau. Thời điểm họ về ở chung với nhau kể từ thời điểm họ có sự sống chung với nhau, chăm sóc giúp đỡ và cùng nhau xây dựng gia đình hay tính từ mốc thời gian tổ chức lễ cưới, về chung sống với nhau có người khác chứng kiến.
Ngôi nhà khang trang của ông Dương Văn C. (Ảnh: Travelmag)
Theo đó nếu sống chung với nhau trong khoảng thời gian này mặc dù Luật hôn nhân và gia đình 1986 đã có hiệu lực nhưng pháp luật vẫn cho các cặp vợ chồng chưa đăng ký kết hôn một khoảng thời gian hợp lý để kịp thời bổ sung thủ tục này. Trong khoảng thời gian đó nếu có yêu cầu ly hôn hay giải quyết tranh chấp thì vẫn được áp dụng theo quy định pháp luật hiện hành để giải quyết. Theo quy định của Thông tư liên tịch 01/2001 thì những trường hợp này phải đăng ký kết hôn trong khoảng thời gian từ thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 2001 đến thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 2003.
Như vậy, luật sư Cường cho rằng, nếu người đàn ông này với người vợ đầu tiên mà đủ tuổi kết hôn, không thuộc trường hợp cấm kết hôn, việc chung sống như vợ chồng trước "3/1/1987 thì pháp luật công nhận quan hệ hôn nhân này.
Người vợ đầu của ông C. (Ảnh: Dân trí)
Ông Dương Văn C. và người "vợ" thứ 2. (Ảnh: Dân trí)
Cụ C. và người "vợ" trẻ thứ 8 (Ảnh: Dân trí)
Các người vợ này đều được cụ ông U70 cưới hỏi về đàng hoàng nhưng tuyệt nhiên không đăng kí kết hôn
Người đàn ông này nhận thức được pháp luật thừa nhận quan hệ hôn nhân hợp pháp nhưng vẫn tiếp tục chung sống như vợ chồng với người phụ nữ khác thì có thể bị phạt hành chính, nếu người hậu quả nghiêm trọng thì sẽ bị xử lý hình sự về tội vi phạm hôn nhân một vợ một chồng.
Trường hợp người đàn ông này không đủ điều kiện công nhận "hôn nhân thực tế" với người phụ nữ thứ nhất nhưng đủ điều kiện công nhận hôn nhân thực tế với người thứ hai hoặc người thứ ba nhưng sau đó vi phạm hôn nhân một vợ một chồng thì vẫn bị áp dụng chế tài của pháp luật.
Bên cạnh đó, luật sư Cường cũng bày tỏ sự lo lắng thay người đàn ông này, bởi dù hiện tại chưa phát sinh những mâu thuẫn tranh chấp. Nhưng nếu sau này người đàn ông ấy chết đi hoặc một trong các bà vợ chết đi mà có liên quan đến thừa kế tài sản có giá trị thì rất dễ phát sinh những tranh chấp.
"Đây là chuyện hi hữu xảy ra và nhiều vợ, lắm con chưa chắc đã phải là người đàn ông hạnh phúc. Trong xã hội thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa, nếp sống văn minh như ngày nay thì hi vọng không người đàn ông nào học theo cách sống của ông này để tránh những phiền hà, rắc rối có thể xảy ra sau khi về già hoặc sau khi người đàn ông này qua đời" , luật sư Cường nêu quan điểm.
Cụ C. khiến nhiều người bàn tán xôn xao về sự đào hoa của mình. Cụ C. cho biết, quá trình đi làm ăn từ Quảng Ninh đến Tây Ninh, TP.Hồ Chí Minh, cụ lần lượt có đến 11 bà vợ và 27 người con. Tất nhiên, những người con này đều được cụ đi xét nghiệm ADN rồi mới nhận.
Thậm chí, cụ C. còn khoe những dòng email qua lại của ông và cô vợ trẻ, sinh năm 1998. Trong đó có không ít lời tỏ tình đầy táo bạo của cô gái trẻ về tình yêu "chết đi sống lại" của mình dành cho cụ ông 72 tuổi này.
Nam Thư tiết lộ muốn sinh con nhưng chưa thể tạm dừng sự nghiệp Trác Thúy Miêu, Đại Nghĩa và Nam Thư khẳng định "đẻ thuê" không phải lựa chọn duy nhất nếu bạn không thể sinh con. "Đẻ thuê" không phải là cụm từ xa lạ trong xã hội hiện đại. Ở một số nước trên thế giới, đẻ thuê là một nghề được cho phép và công nhận, nhưng ở Việt Nam đó là sự...