Mãi chưa có nghị định hướng dẫn, các trường đại học như đứng giữa ngã ba đường
Đến nay mới chỉ có Luật Giáo dục đại học và Luật viên chức – công chức được sửa theo hướng mở rộng quyền tự chủ còn nhiều luật khác thì chưa.
LTS: Hơn ba mươi năm nay giáo dục đại học Việt Nam chuyển từ hoạt động theo mô hình đại học kiểu Liên Xô cũ phục vụ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình đào tạo phục vụ nền kinh tế thị trường.
Cùng những thành tựu đã “gặt hái” giáo dục đại học đang đối mặt với những vấn đề đặt ra khiến Nhà nước sửa Luật Giáo dục đại học nhưng vẫn bế tắc. Đến nỗi Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua hơn 1 năm nay mà không thể hướng dẫn đưa vào thực hiện.
Trước vấn đề này Báo điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Đặng Văn Định – Trưởng ban nghiên cứu và phân tích chính sách (Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam).
Phóng viên: Nếu để chỉ ra một vài vấn đề bức xúc cần tháo gỡ từ hoạt động thực tiễn của giáo dục đại học thì ông sẽ chia sẻ điều gì?
Tiến sĩ Đặng Văn Định: Trong phạm vi bài viết này tôi xin được chỉ ra một số vấn đề (vì thực tế nhiều lắm).
Thứ nhất, hệ thống giáo dục đại học bị biến dạng
Quá trình đổi mới, nhà nước xác định “trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục đại học là bậc học cao nhất. Ở bậc học này, cần lấy cấp đại học là trình độ chuẩn, dưới cấp này là cấp cao đẳng và trên nó là các cấp cao học và tiến sĩ”.
Sự xuất hiện các trình độ giáo dục đại học mới (trình độ cao đẳng, trình độ cao học) là cả một quá trình trải nghiệm mấy chục năm, nó đáp ứng đòi hỏi của kinh tế – xã hội và phù hợp với chuẩn phân loại giáo dục quốc tế ISCED của UNESCO, phù hợp với xu thế chung của thế giới.
Thế nhưng từ cuối năm 2014, những người am tường về giáo dục rất phân vân khi biết Luật Giáo dục nghề nghiệp quan niệm “giáo dục nghề nghiệp là một bậc học nhằm đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng” .
Đến nay mới chỉ có Luật Giáo dục đại học và Luật viên chức – công chức được sửa theo hướng mở rộng quyền tự chủ còn nhiều luật khác thì chưa. (Ảnh minh họa: Trường Đại học Bách khoa Hà Nội)
Năm 2018, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học quy định trình độ đào tạo của giáo dục đại học gồm trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ, không thừa nhận cấp cao đẳng là trình độ đại học, xóa đi những kết quả được cuộc sống thừa nhận, tạo nên sự sự khác biệt giữa hệ thống giáo dục đại học Việt Nam với thế giới.
Vấn đề đặt ra là có nên duy trì một cơ cấu trình độ giáo dục đại học như hiện nay không?
Thứ hai, mô hình đại học đa lĩnh vực
Năm 1993, Chính phủ thành lập Đại học Quốc gia Hà Nội, hai năm sau thành lập tiếp Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Những đặc điểm quan trọng là:
- Sắp xếp và tổ chức lại một số trường Đại học và Viện nghiên cứu ở địa bàn thành phố lớn thành những trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học đa ngành, đa lĩnh vực của cả nước;
- Tổ chức hoạt động theo quy chế riêng do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (Có địa vị pháp lý đặc biệt, không có cơ quan chủ quản và được dùng con dấu quốc huy; tự chủ, tự chịu trách nhiệm giải trình, đầu mối nhận phân bổ tài chính cấp I, Giám đốc Đại học Quốc gia do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, được điều hành mọi hoạt động của đại học).
Theo định hướng trên, nhà nước đã thành lập một số đại học đa lĩnh vực ở các khu vực Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng, thường gọi là đại học vùng. Sự khác biệt chính là các Đại học vùng không được hoạt động theo quy chế riêng do Thủ tướng Chính phủ ban hành, không sử dụng con dấu quốc huy, không là đầu mối nhận phân bổ tài chính cấp I, chịu sự quản lý trực tiếp của cơ quan chủ quản là Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Ở đây, mô hình quản trị Đại học Quốc gia, Đại học vùng dựa vào nhà nước. Biến thể của nó là “nhà nước quản trị hoàn toàn và quản trị kiểu chính trị” được thiết lập.
Với vị thế đại diện chủ sở hữu, Chính phủ có thẩm quyền tập trung đầu tư và tổ chức Đại học Quốc gia theo cách đó. Cho đến nay, Đại học Quốc gia thực chất là một pháp nhân độc lập; các Đại học Vùng có quyền hạn cơ bản tương tự như các trường đại học công lập truyền thống. Không ít ý kiến trái chiều. Có những câu hỏi không nên lảng tránh:
(i). Liệu có để các trường đại học thành viên thuộc Đại học Quốc gia, Đại học Vùng được thừa nhận có tư cách tương tự một trường đại học độc lập?
(ii) Làm gì để các Đại học Vùng trở thành pháp nhân độc lập?
Thứ ba, lợi nhuận và không vì lợi nhuận
Giai đoạn năm 2012 – 2018 luật và văn bản dưới luật có những quy định không phù hợp. Riêng về “không vì lợi nhuận” đã chấp nhận việc nhà đầu tư “hưởng lợi tức hàng năm không vượt quá trái phiếu Chính phủ”. Làm như vậy để thu hút nguồn lực đầu tư nhưng xem ra không đi vào cuộc sống.
Luật Giáo dục đại học sửa đổi (2018) có một lối rẽ từ mô hình giáo dục đại học tư thục, đó là cơ sở giáo dục đại học tư thục không vì lợi nhuận. Theo đó “nhà đầu tư cam kết hoạt động không vì lợi nhuận” và “không rút vốn, không hưởng lợi tức, phần lợi nhuận tích lũy hàng năm thuộc sở hữu chung hợp nhất không chia”.
Chưa thấy cơ sở giáo dục đại học tư thục nào đăng ký hoạt động không vì lợi nhuận, nhưng đã có tập đoàn kinh tế tuyên bố lập trường đại học không vì lợi nhuận.
Vấn đề là:
(1) Đối tượng đầu tư nào ở Việt Nam có thể “cam kết hoạt động không vì lợi nhuận” và “không rút vốn, không hưởng lợi tức, phần lợi nhuận tích lũy hàng năm thuộc sở hữu chung hợp nhất không chia”.
Video đang HOT
(2) Quy định không vì lợi nhuận hiện hành tác động thế nào đến hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập hiện có?
(3) Làm gì để thực hiện kỳ vọng phát triển các cơ sở giáo dục đại học tư thục không vì lợi nhuận?
Thứ tư, cơ quan chủ quản
Cho đến nay, mô hình quản trị đại học vẫn là vấn đề được tranh luận nhiều, trọng tâm là “cơ quan chủ quản”.
Dựa vào hệ thống “tam giác phối hợp” quyền lực từ phía nhà nước, giới khoa học và thị trường, Burton Clark đã đưa ra bảng phân loại nổi tiếng gồm ba mô hình quản trị đại học được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới áp dụng và phát triển.
Đó là (i) quản trị dựa vào giới khoa học hàn lâm, (ii) quản trị dựa vào nhà nước và (iii) quản trị dựa vào thị trường.
Ta quan sát các mô hình đại học được trải nghiệm sau đây:
Một số đặc điểm đáng lưu ý của các mô hình đại học được trải nghiệm
Trong thực tiễn, các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập và các Đại học Quốc gia đều là pháp nhân độc lập, tự chủ cao, không có cơ quan chủ quản.
Thử nghĩ:
(i) Học được gì từ việc không có cơ quan chủ quản ở hai Đại học Quốc gia ở hàng trăm đại học tư thục và hàng nghìn trường phổ thông tư thục?
(ii) Liệu có thể cho các cơ sở giáo dục đại học thuộc diện thực hiện Nghị quyết 77 bỏ (hay thí điểm bỏ) cơ chế chủ quản?
Thứ năm, luật pháp để lại những thiếu hụt
Một là, không đồng bộ. Ví dụ Nghị quyết số 19-NQ/TW chỉ đạo “kịp thời bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách”.
Đến nay mới chỉ có Luật Giáo dục đại học và Luật viên chức – công chức được sửa theo hướng mở rộng quyền tự chủ cho đơn vị sự nghiệp công lập.
Trong khi đó Luật lao động, Luật kiểm toán, Luật đầu tư công, Luật đấu thầu đều chưa được sửa, cho dù các luật này đang có nhưng quy định ngăn cản xu thế tự chủ đại học.
Hai là, không nhất quán.
Ví dụ 1 là vấn đề cơ quan chủ quản. Bảng 1 cho thấy ba nhóm: Đại học Quốc gia, trường đại học ngoài công lập, trường đại học công lập hoạt động theo Nghị quyết 77 đều chung chức năng nhiệm vụ và có quyền tự chủ tương đồng. Tuy nhiên cơ quan chủ quản chỉ áp dụng ở nhóm trường thứ ba.
Ví dụ 2 là việc áp dụng điều kiện tự chủ toàn diện. Nghị quyết 77 của Chính phủ tuyên bố tự chủ theo điều kiện tài chính. “tự bảo đảm toàn bội kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi đầu tư được thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện”. Trong khi đó tất cả cơ sở đại học tư thục đều thỏa mãn “điều kiện tài chính” thì không được nhà nước thừa nhận “tự chủ toàn diện”.
Ba là, không khả thi
Chính sách đất đai đối với các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập chuyển động như sau: nhà nước tuyên bố:”giao đất ổn định lâu dài” (Nghị định 73) => “giao đất hoặc cho thuê đất đã hoàn thành giải phóng mặt bằng” (Nghị định 69) => “thuê đất đã giải phóng mặt bằng” nhưng lại căn cứ khả năng ngân sách địa phương (Nghị định 53).
Bốn là, không công bằng, dẫn tới cạnh tranh không bình đẳng
Các cơ sở giáo dục đại học đang trong tình trạng cùng làm một dịch vụ công, nhưng riêng các cơ sở giáo dục đại học công lập không phải đóng thuế, được giao đất vĩnh viễn, được đầu tư cở vật chất, thậm chí cả ngân sách nhà nước cho chi hoạt động thường xuyên.
Trong khi đó, các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập không được nhà nước đầu tư đất đai và bất cứ nguồn lực nào đồng thời phải đóng thuế. (Giai đoạn đầu mức thuế suất 25%, 20%, 15% tùy thuộc đặc điểm vùng miền => 10% cho mọi đối tượng và duy trì đến nay). Đang có một cuộc cạnh tranh rất không bình đẳng.
Lo ngại: không chỉ là kỹ thuật làm luật hạn chế mà còn là sự hiểu biết về phát triển dịch vụ công, là hành vi ứng xử điều hành của chủ thể quản lý. Và không gì ngại hơn khi nhà nước trao cả 3 nhóm việc vào tay một tổ chức:
(1) xây dựng luật pháp;
(2) chỉ đạo thực hiện luật pháp;
(3) đánh giá tác động chính sách và phản biện chính sách.
Hệ lụy: Luật Giáo dục đại học đã hơn 1 năm mà không thể hướng dẫn thực hiện. Các cơ sở giáo dục đại học đang đứng giữa ngã ba đường.
Năm là, thách thức từ kỷ nguyên công nghệ số
Những tiến bộ khoa học công nghệ của kỷ nguyên số đang thâm nhập vào hoạt động của mọi lĩnh vực. Điều này nhắc nhở mỗi cơ sở giáo dục đại học đến với những lựa chọn mới về mục tiêu, chương trình, đào tạo; về các điều kiện bảo đảm truyền tải kiến thức và phương pháp giáo dục; về bảo đảm chất lượng.
Những vấn đề được đặt ra ở trên chưa phải là tất cả, nhưng cho thấy nỗi khổ của các cơ sở giáo dục đại học và sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện luật pháp. Theo nhiều chuyên gia, ưu tiên hàng đầu cho giáo dục đại học Việt Nam hiện nay là hoàn thiện thể chế với nguyên tắc bám sát các quy luật cốt lõi của thị trường, đảm bảo công bằng, bình đẳng. Ông nghĩ sao về điều này?
Tiến sĩ Đặng Văn Định: Đúng như bạn nói. Tôi có một vài gợi ý về giải pháp làm chỗ dựa trong quá trình xây dựng các văn bản dưới luật và hoàn thiện luật:
Thứ nhất, mỗi cơ sở giáo dục đại học là một pháp nhân độc lập. Nhà trường đại học tự chủ về đào tạo nghiên cứu; tự chủ về tổ chức nhân sự; tự chủ về tài chính tài sản; đồng thời chịu trách nhiệm giải trình trước xã hội và nhà nước về mọi hoạt động của mình; không có cơ quan chủ quản đối với nhà trường đại học. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào công việc của nhà trường đại học.
Thứ hai, việc quản trị nhà trường đại học dựa trên nền tảng sở hữu. Nhà trường đại học có tài sản thuộc sở hữu toàn dân, cơ cấu các thành phần tham gia quản trị gồm đại diện nhà nước và cộng đồng.
Nhà trường đại học có tài sản thuộc sở hữu chung, cơ cấu các thành phần tham gia quản trị gồm đại diện các bên liên quan. Nhà trường đại học có tài sản thuộc sở hữu riêng (tư nhân), cơ cấu các thành phần tham gia quản trị do các nhà đầu tư quyết định; khuyến khích sự tham gia của cộng đồng.
Thứ ba, tiến tới nhà trường đại học là một hệ sinh thái, việc truyền đạt và tích lũy kiến thức ở mọi lúc, mọi nơi.
Thứ tư, Nhà nước ứng xử công bằng, bình đẳng với các cơ sở giáo dục đại học, không phân biệt trường công, trường tư; không phân biệt đào tạo theo truyền thống với các hình thức đào tạo khác.
Thứ năm, xây dựng một hệ thống giáo dục đại học theo chuẩn mực chung được UNESCO khuyến cáo, bảo đảm nguồn nhân lực thích ứng điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Tóm lại, thay vì tìm cách chống đỡ các vụ việc nảy sinh, chúng ta nên nhìn thẳng vào sự thật, xác định những vấn đề còn thiếu hụt, hướng tới một Việt Nam thịnh vượng và hội nhập với thế giới để chấn hưng nền giáo dục đại họcViệt Nam.
Trân trọng cảm ơn ông.
Thùy Linh
Theo giaoduc.net
Khi Đại học Hải Phòng tự chủ, Nhà nước có cấp kinh phí cho trường thực hành?
Khi các trường đại học được giao quyền tự chủ, trong đó có tự chủ tài chính thì các trường thực hành phải được nhà nước cấp kinh phí như các trường phổ thông.
Đó là quan điểm của Nhà giáo ưu tú, Tiến sĩ Ngô Đăng Duyên, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học sư phạm Hải Phòng (nay là Đại học Hải Phòng) trước thực trạng Trường Đại học Hải Phòng đang trong lộ trình tự chủ đại học.
Theo chia sẻ của Tiến sĩ Duyên, năm 1997, Trường Cao đẳng sư phạm Hải Phòng có 3 trường thực hành gồm: mầm non, tiểu học và trung học cơ sở.
Đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất của 3 trường này được Trường Cao đẳng sư phạm Hải Phòng đầu tư rất lớn để thực hiện nhiệm vụ thực hành.
Các trường đã tiến hành giảng dạy, giáo dục học sinh như các trường phổ thông đạt chất lượng cao, trở thành địa chỉ mơ ước của các phụ huynh học sinh trên địa bàn quận Kiến An.
Đã có những thời điểm, các trường thực hành trong Trường Đại học Hải Phòng trở thành địa chỉ mơ ước cho các bậc phụ huynh (Ảnh: LT)
Tiến sĩ Duyên cho biết: "Đến năm 2000, Trường Đại học sư phạm Hải Phòng được thành lập thì ý định thành lập trường thực hành bậc trung học phổ thông cũng được đưa ra bàn ngay từ đầu.
Kế hoạch về trường thực hành sư phạm trực thuộc Đại học sư phạm Hải Phòng đã được trình lên Ủy ban nhân dân thành phố và được thành phố đồng ý, ra quyết định thành lập.
Ngay sau khi thành lập, trong 3 năm học liên tiếp (từ năm học 2001-2002), Trường trung học phổ thông thực hành của Đại học sư phạm Hải Phòng đều tuyển sinh với tỷ lệ tuyển chọn khá cao, điểm đầu vào tương đương với trường chuyên của thành phố".
Thời điểm đó, các giáo viên trực tiếp giảng dạy là giáo viên dạy khoa học cơ bản của Trường đại học sư phạm Hải Phòng (thường là các giáo viên luyện thi vào đại học, cao đẳng).
Trường Đại học sư phạm Hải Phòng trả giờ dạy cho các giáo viên dạy tại Trường trung học phổ thông thực hành theo chế độ dạy thừa giờ ở đại học,
Chính vì vậy, các giảng viên tham gia giảng dạy rất phấn khởi vì chất lượng giảng dạy rất cao.
Tiến sĩ Ngô Đăng Duyên đưa ra dẫn chứng, chất lượng giảng dạy tại trường thực hành những năm đó đạt kết quả ngoài mong đợi: gần như 100% học sinh tốt nghiệp các khóa đều đỗ đại học, nhiều em có điểm số cao.
"Sức hút học sinh thời đó vào trường là rất lớn. Nhưng, vài năm sau đó, chính trong trường Đại học Hải Phòng lại có những quan điểm khác nhau về trường thực hành.
Kết quả là trường thực hành những năm sau đó phải thực hiện theo hướng "tự chủ"- tuyển giáo viên đủ để dạy các lớp của trường, phần lớn là những sinh viên mới ra trường.
Vì vậy, chất lượng giảng dạy không thể được như trước, số học sinh vào trường giảm dần, một số năm trường thực hành không tuyển đủ chỉ tiêu với số điểm rất thấp", Tiến sĩ Duyên nhớ lại.
Tiến sĩ Ngô Đăng Duyên cho rằng, về chuyên môn, các trường thực hành dạy theo chương trình phổ thông chung, chịu sự quản lý chuyên môn của Phòng giáo dục, Sở Giáo dục và Đào tạo, phục vụ cho học sinh địa phương.
Do đó, kinh phí đào tạo, kinh phí đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị dạy học phải được Nhà nước cấp như các trường phổ thông công lập.
Tuy nhiên, Trường Cao đẳng sư phạm Hải Phòng (nay là Đại học Hải Phòng) muốn được cấp kinh phí cho các trường thực hành thì phải lập dự toán thông qua Phòng Giáo dục, Sở Giáo dục và Đào tạo và gửi lên Sở Tài chính.
Nếu được cấp kinh phí, Sở Tài chính sẽ gửi về Phòng Tài chính của quận, từ đó cấp trực tiếp cho các trường thực hành.
Nhưng khi Phòng Tài vụ của Trường Cao đẳng sư phạm Hải Phòng (nay là Trường Đại học Hải Phòng) làm việc với Phòng Giáo dục quận và Sở Giáo dục thì lại rất phức tạp, nhiều năm không làm được.
Đây là kinh phí cấp trên sĩ số học sinh và kinh phí chi thường xuyên, còn kinh phí chi lương cho giáo viên thì phải qua Phòng Nội vụ quận với rất nhiều điều kiện...
Cùng với đó, kinh phí về xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị còn phức tạp hơn nhiều.
Do đó, để bảo đảm cho mọi hoạt động của trường thực hành, Trường Cao đẳng sư phạm Hải Phòng (nay là Đại học Hải Phòng) phải dùng kinh phí của trường với phần kinh phí ít ỏi thu được từ tiền học phí của học sinh để trả lương cho giáo viên và mọi hoạt động của trường thực hành.
Kinh phí để Trường Đại học Hải Phòng chi cho các hoạt động của trường thực hành vẫn là vấn đề đáng quan tâm trong lộ trình tự chủ đại học (Ảnh: LT)
"Suốt 10 năm tôi làm hiệu trưởng (6 năm làm hiệu trưởng trường Cao đẳng sư phạm và 4 năm Đại học sư phạm Hải Phòng) phải chấp nhận tình trạng như vậy.
Nhưng vì mục đích thực hành sư phạm, nhà trường vẫn trả lương cho giáo viên thực hành theo quy định và các khoản phụ cấp khác như giáo viên của trường sư phạm.
Trường sư phạm cũng đầu tư cơ sở vật chất cho trường thực hành đầy đủ, khang trang hơn các trường phổ thông ở trên địa bàn quận Kiến An", Tiến sĩ Duyên nói.
Tại chương 4, Điều 11 trong quy chế hoạt động của trường thực hành sư phạm (ban hành theo Thông tư 16/2014 ngày 16/5/2014 của Bộ Giáo dục và Đà tạo) ghi: "Hằng năm, trường thực hành sư phạm trực thuộc cơ sở đào tạo giáo viên dự toán kinh phí cho hoạt động thực hành sư phạm, báo cáo cơ sở đào tạo giáo viên phê duyệt và chi trả".
Đó là quy định cho các trường thực hành, còn cơ sở đào tạo giáo viên thì lấy kinh phí ở đâu để chi cho trường thực hành thì vẫn chưa có văn bản nào đề cập đến?
Tiến sĩ Ngô Đăng Duyên nhấn mạnh: Trường thực hành sư phạm còn nhiều vấn đề phải bàn như: nhận thức về trường thực hành, quan hệ giữa sư phạm và phổ thông, các quy chế, quy định, thông tư hướng dẫn, cơ chế chính sách với trường thực hành sư phạm...
Trên thực tế, sinh viên sư phạm không thiếu kiến thức mà họ thiếu phương pháp dạy học theo yêu cầu đổi mới, theo chương trình giáo dục phổ thông mới.
Trên cơ sở đó, Tiến sĩ Duyên đề xuất: Bộ Giáo dục và Đào tạo cần nghiên cứu, bổ sung những văn bản trên giúp cơ sở đào tạo giáo viên, các trường thực hành khắc phục những khó khăn hiện nay.
Việc làm này góp phần đưa hệ thống thực hành sư phạm thực sự là nơi để các sinh viên sư phạm thực hành các phương pháp dạy học theo cách "biến tri thức thành năng lực và phẩm chất" ở người học.
Cùng với đó, các cơ sở đào tạo giáo viên có trường thực hành phải được dự toán kinh phí, trong đó có dự toán kinh phí cho trường thực hành cùng các khoản khác.
"Tới đây, các trường đại học được giao quyền tự chủ, trong đó có tự chủ tài chính thì với những trường thực hành vẫn phải được Nhà nước cấp kinh phí như các trường phổ thông công lập.
Với Hải Phòng, từ năm 2020 trở đi, thành phố sẽ miễn học phí cho học sinh các cấp theo lộ trình, các trường phổ thông phải được ngân sách nhà nước cấp với nguồn kinh phí lớn hơn.
Các trường thực hành sư phạm tại Đại học Hải Phòng cũng phải được cấp như các trường phổ thông của thành phố", Tiến sĩ Duyên đề xuất.
LÃ TIẾN
Theo giaoduc.net
Cấm trường đại học đào tạo cao đẳng là phạm luật? Luật Giáo dục Đại học (ĐH) không cấm trường ĐH đào tạo trình độ cao đẳng (CĐ), trường đại học đào tạo cao đẳng (GDNN) cho phép cơ sở Giáo dục ĐH được hoạt động GDNN. Vì thế, lãnh đạo nhiều trường ĐH đề nghị vẫn được đào tạo CĐ. Học sinh lớp 12 được tư vấn và trải nghiệm công việc trước...