Lý giải nguyên nhân Nga bán vũ khí cho Trung Quốc
Dù cay đắng thừa nhận 70% mẫu vũ khí do Trung Quốc sản xuất được sao chép từ Nga, nhưng Moskva vẫn không ngừng bán vũ khí cho Bắc Kinh.
Cay đắng thừa nhận
Ngày 30/5, website của Đài truyền hình quân đội Zvezda (Nga) đã đăng tải bài viết thừa nhận về tình trạng Trung Quốc sao chép vũ khí do Nga sản xuất.
Theo đó, có đến 70% mẫu vũ khí do Trung Quốc sản xuất được sao chép từ Liên Xô và Nga sau này, đây là kết luận về chương trình phát triển vũ khí gây nhiều tranh cãi của Trung Quốc. Kết luận này được đưa ra dựa trên sự phát triển của nền công nghiệp quốc phòng của Trung Quốc phát triển chủ yếu dựa vào sự bảo trợ của Liên Xô.
Và trong quá trình hợp tác kỹ thuật quân sự giữa hai nước những năm 1950, Liên Xô cung cấp giấy phép sản xuất như tên lửa chống hạm P-15 Termit, máy bay chiến đấu Mig-15.
Đến những năm 1990, khi Nga – Trung nối lại quan hệ sau khi Liên Xô sụp đổ, sự hợp tác kỹ thuật quân sự giữa 2 nước có những chuyển biến mới. Đặc biệt sau khi Nga cung cấp giấy phép sản xuất tiêm kích Su-27 cho Trung Quốc với tên gọi J-11 đã mở đường cho một làn sóng sao chép vũ khí Nga một cách dữ dội.
Tiêm kích J-11B được Trung Quốc sao chép từ Su-27 của Nga
Những sản phẩm đình đám mà Trung Quốc sao chép từ Nga tạo nên một cuộc tranh cãi gay gắt giữa 2 nước về quyền sở hữu trí tuệ. Và tiêm kích J-11B chính là sản phẩm sao chép gây nhiều tranh cãi nhất giữa Nga – Trung sau khi Nga cung cấp giấy phép sản xuất tiêm kích Su-27 cho Trung Quốc với tên gọi J-11.
Việc “chế biến” thành công Su-27 thành J-11B đã tạo nhiều tiền đề cho Trung Quốc tiếp tục phát triển ngành công nghiệp quốc phòng gây tranh cãi.
Theo đó, ngay khi Trung Quốc mua được từ Nga 76 chiếc tiêm kích Su-30MKK và 24 chiếc Su-30MK2. Sau đó, Trung Quốc đã tạo phiên bản song sinh của tiêm kích này thành J-16. Ngoài ra, bản sao tiếp theo khiến Nga cay đắng chính là hệ thống phòng không HQ-9 được sản xuất theo nguyên mẫu S-300 của Nga.
Ngoài việc sao chép trực tiếp từ những nguyên mẫu có được từ Nga, Trung Quốc còn bị tố tiến hành sao chép bằng gián điệp công nghiệp. Theo Military Factory, sau một thời gian dài không thuyết phục được Moscow bán tiêm kích trên hạm Su-33, Trung Quốc đã lặn lội sang “cầu cạnh” Ukraine bán mẫu T-10K của Su-33 mà nước này đang nắm giữ.
Không ngoài tính toán của người Nga, không lâu sau đó, mẫu thử nghiệm tiêm kích trên hạm do Trung Quốc sản xuất đã xuất hiện với tên gọi J-15.
Bản sao gây tranh cãi tiếp theo là hệ thống tên lửa đạn đạo chiến thuật M20. Lần đầu tiên xuất hiện tại triển lãm quốc phòng IDEX-2013 tại Dubai, UAE, tên lửa đạn đạo chiến thuật M20 lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt của giới quân sự thế giới.
M20 thu hút sự quan tâm của dư luận không phải đặc tính kỹ thuật ưu việt của nó mà vì nó giống tên lửa đạn đạo chiến thuật 9K720 Iskander của Nga một cách kỳ lạ.
Dù nhà sản xuất Trung Quốc khẳng định M20 chính là sản phẩm nước này tự nghiên cứu chế tạo, tuy mới chỉ xuất hiện ở dạng mô hình nhưng điều đó cho thấy các nhà sản xuất Trung Quốc đã sẵn sàng để cho ra đời một biến thể Iskander “made in China”.
Ngoài những sản phẩm sao chép bất hợp pháp kể trên, ngay từ thời Liên Xô, Trung Quốc đã sản xuất thành công phiên bản nội địa của máy bay Tu-16 thành H-6, súng trường AK-47, xe tăng T-54/55…
Tên lửa đạn đạo chiến thuật M20 được cho rằng sao chép từ Iskander của Nga
Lý giải mối thâm tình Nga – Trung
Theo nhận định của các chuyên gia, nguyên nhân chính khiến Nga vẫn coi Trung Quốc là đối tác chiến lược là do các hợp đồng mua sắm vũ khí lớn của Trung Quốc đưa nước này trở thành khách hàng mua vũ khí lớn nhất của Nga với kim ngạch chiếm từ 20-25% tổng kim ngạch xuất khẩu vũ khí.
Trung Quốc đã có cuộc đại mua sắm tiểu đoàn tên lửa S-300 của Nga. Đầu tiên là hợp đồng mua 2 tiểu đoàn tên lửa đối không tầm xa S-300PMU trị giá 220 triệu USD ký kết vào năm 1990. Đến năm 1994, Trung Quốc lại ký hợp đồng mua thêm 2 tiểu đoàn S-300PMU1 trị giá 400 triệu USD. Năm 2001, Bắc Kinh mua thêm 2 tiểu đoàn S-300PMU1 nữa trị giá 400 triệu USD.
Video đang HOT
Năm 2002, Trung Quốc mua 2 hệ thống S-300F biến thể trang bị trên tàu chiến trị giá 200 triệu USD để trang bị cho tàu khu trục Type-051C. Năm 2003, ký hợp đồng trị giá 980 triệu USD để mua 4 tiểu đoàn S-300PMU2.
Đến cuối năm 2008, Trung Quốc có tổng cộng 160 xe phóng S-300 các loại, trong đó có 32 xe phóng S-300PMU, 64 xe phóng S-300PMU1, 64 xe phóng S-300PMU2, số tên lửa đã chuyển giao hơn 1000 quả.
Giai đoạn 1996-2000, Trung Quốc đặt mua tổng cộng 29 hệ thống tên lửa đối không tầm thấp TOR trị giá 700 triệu USD.
Mới đây nhất là hồi đầu năm 2015, Trung Quốc được cho là đã hoàn tất thỏa thuận mua 6 tiểu đoàn tên lửa phòng không S-400 từ Nga với tổng trị giá lên tới trên 3 tỷ USD, theo Want China Times.
Từ những khoản lợi nhuận khổng lồ mang lại từ việc bán vũ khí cho Trung Quốc, người Nga đã bất chấp việc bị sao chép công nghệ, vẫn coi Bắc Kinh là đối tác chiến lược cho nghành công nghiệp xuất khẩu quốc phòng của mình.
Theo Chúc Sơn
Đất Việt
Trung Quốc dịch nhầm, sao chép bản đồ ở Biển Đông
Giả thuyết của tôi là, các quan chức TQ đã lầm lẫn sự phản đối có thực năm 1932 đối với Pháp về hoạt động ở quần đảo Hoàng Sa, với sự phản đối không tồn tại năm 1933 về quần đảo Trường Sa.
Trong bài báo năm 1997, Shen tuyên bố chính quyền Đài Loan "đã xem xét lại tên các đảo ở Biển Đông" vào năm 1932.
Trong thực tế, ủy ban chuyên trách của Đài Loan đơn giản chỉ dịch hoặc chuyển tự các tên bằng tiếng Anh hoặc tên quốc tế của các hòn đảo.
Do đó, nhiều cái tên tiếng Trung tiếp tục vinh danh các nhà khảo sát Anh đã có công lập bản đồ những thực thể này.
Ở Hoàng Sa, đảo Linh Dương (tên tiếng Anh là Antelope Reef, VN gọi là đá Hải Sâm) được đặt theo tên tàu khảo sát Anh - the Antelope. Đảo Kim Ngân (Money Island, VN gọi là đảo Quang Ảnh) không nhằm để chỉ tiền bạc, mà được đặt theo tên của William Taylor Money, người quản lý thương thuyền Bombay của công ty Đông Ấn đã nhìn thấy đảo vào năm 1800.
Lầm lẫn sự phản đối của Pháp
Một lập luận được coi là then chốt cho yêu sách chủ quyền của TQ đối với quần đảo Trường Sa là sự quả quyết lặp đi lặp lại rằng, Đài Loan đã có sự phản đối chính thức đối với chính phủ Pháp tiếp sau sự thôn tính của Pháp đối với nhiều thực thể địa lý ở quần đảo Trường Sa vào ngày 26/3/1933.
Sự thật chắc chắn là, việc thôn tính đã khơi dậy sự khiếp đảm trong chính quyền và sự phẫn nộ theo chủ nghĩa dân tộc của dân chúng. Tuy nhiên, liệu Đài Loan từng đưa ra sự phản đối chính thức?
Tao Cheng, trong bài báo năm 1975, đã nhắc tới một bài báo trên Nguyệt san Tân Á năm 1935, 2 năm sau sự kiện trên. Chiu và Park trong một chú thích cũng nêu, "có bằng chứng rằng TQ cũng phản đối".
Tháng 3/2015, báo Inquirer, Philippines đăng ảnh TQ cải tạo bãi đá ở Trường Sa của VN
Họ đã tham khảo một bài viết của Cho Min ở Nguyệt san Ngoại giao và cuốn sách "Sơ lược về địa lý các đảo phía nam" của Cheng Tzu-yeh năm 1948.
Tuy nhiên, họ cũng công nhận, "Ngày TQ đưa công hàm phản đối đã không được nêu trong cuốn sách của Cheng, và cũng không được đề cập đến trong "Bản ghi nhớ về 4 quần đảo lớn của Trung Hoa dân quốc (Đài Loan) ở Biển Đông", do Bộ Ngoại giao của Đài Loan phát hành tháng 2/1974.
Chi tiết này lại được nêu ra trong bài thuyết trình của đại sứ Freeman và báo cáo của Trung tâm Phân tích Hải quân Mỹ (CNA) trích dẫn nghiên cứu của Shen.
Trong bài báo năm 1997, Shen đã trích dẫn 2 nguồn: Cheng và Chiu - Park, nhưng như chúng ta đã thấy ở trên, họ đã không cung cấp bất kỳ nguồn tham khảo nào cho khẳng định của mình.
Trong bài viết của mình năm 2002, Shen đã đề cập tới các bài viết trong hội nghị chuyên đề của Cơ quan quản lý biển quốc gia TQ. Những công trình này không phổ biến ngoài TQ, nhưng vẫn có bằng chứng đáng tin cậy rằng, tất cả chúng đơn giản đã sai.
Franois-Xavier Bonnet đã phát hiện các ghi chép của người Mỹ cho thấy, ngay sau tuyên bố của Pháp (đối với các thực thể ở quần đảo Trường Sa), chính quyền TQ phải yêu cầu lãnh sự của mình ở Manila, ông Kuan-ling Kwong hỏi xin chính quyền thuộc địa Mỹ ở đó một bản đồ về vị trí của chúng.
Chỉ khi đó, chính quyền TQ ở Nam Kinh mới có thể hiểu rằng, những hòn đảo này không nằm trong quần đảo Hoàng Sa và quyết định không phát ra bất kỳ tuyên bố phản đối chính thức nào.
Theo Bonnet, lí do này rõ thấy ngay từ những phút đầu cuộc gặp của hội đồng quân sự của Trung Hoa dân quốc vào ngày 1/9/1933, "Tất cả các chuyên gia địa lý đều nói, đảo Tri Tôn [trong quần đảo Hoàng Sa] là đảo cực nam của lãnh thổ của chúng ta".
Đài Loan đã quyết định rằng, họ không có yêu sách chủ quyền ở quần đảo Trường Sa vào thời điểm đó và do vậy, không có gì phải phản đối.
Nghiên cứu của Chris Chung, một nghiên cứu sinh tiến sĩ người Canada, phát hiện, rằng các tài liệu của Đài Loan vào năm 1946 đều đề cập tới sự phản đối chính thức của TQ vào năm 1933 như thể nó có thực. Điều này sau đó đã trở thành lý lẽ biện minh của TQ để "đòi lại" các quần đảo từ Nhật sau Thế chiến thứ hai.
Tóm lại, điều dường như đã xảy ra là, hơn 13 năm sau khi Pháp sáp nhập các thực thể ở quần đảo Trường Sa, một cách hiểu khác về những gì đã xảy ra vào năm 1933 đã cắm rễ trong các tầng lớp lãnh đạo của Trung Hoa dân quốc.
Giả thuyết của tôi là, các quan chức TQ đã lầm lẫn sự phản đối có thực năm 1932 đối với Pháp về hoạt động ở quần đảo Hoàng Sa, với sự phản đối không tồn tại năm 1933 về quần đảo Trường Sa.
3 cuộc khảo sát quy mô lớn không ở Hoàng Sa
Trong bài báo năm 2002 của mình, Shen khẳng định, Trung Hoa dân quốc "đã tổ chức 3 đợt khảo sát quy mô lớn và các hoạt động đặt tên (cho các đảo) lần lượt vào năm 1932, 1935 và 1947", nhưng không có hoạt động khảo sát nào được tiến hành ở quần đảo Trường Sa mà chỉ là sao chép lại các bản đồ quốc tế.
Đây dường như là lí do tại sao Trung Hoa dân quốc dịch nhầm tên của bãi đá ngầm James, ban đầu gọi nó là bãi Tăng Mẫu (Zengmu Tan).
Tăng Mẫu (Zengmu) đơn giản là sự chuyển nghĩa của từ James. Bãi (Tan) hàm chỉ bãi cát ở biển, trong khi thực tế bãi đá ngầm này ở dưới nước.
Bởi một lỗi dịch thuật đơn giản này, một phần đáy biển đã trở thành một hòn đảo và đến ngày nay được xem là cực nam lãnh thổ của TQ, mặc dù nó không hề tồn tại.
Tên này được Trung Hoa Dân quốc cải biến năm 1974 (khi đó, bãi Tăng Mẫu trở thành rạn san hô Tăng Mẫu) và được Cộng hoà nhân dân Trung Hoa sử dụng lại là bãi Tăng Mẫu vào năm 1983.
Tiếp sau Bộ Ngoại giao TQ, Shen (năm 2002) và Xi và Tan (năm 2014) cũng cùng tranh luận rằng theo Tuyên bố Cairo năm 1943, khối đồng minh đã trao các quần đảo ở Biển Đông cho TQ.
Báo cáo của CNA đã thảo luận về khẳng định này và dứt khoát bác bỏ nó với căn cứ rằng "Tuyên bố Cairo, như được tái khẳng định trong Tuyên cáo Potsdam, chỉ nêu rằng, TQ sẽ giành lại Mãn Châu, Formosa [Đài Loan] và Pescadores (quần đảo Bành Hồ) sau chiến tranh.
Câu tiếp theo đơn giản cho biết, Nhật sẽ bị trục xuất khỏi các lãnh thổ khác mà nước này thâu tóm bằng bạo lực, nhưng không đề cập rằng 'những lãnh thổ khác' này sẽ được trao trả cho TQ.
Mặc dù không được tuyên bố cụ thể, nhưng kết luận logic duy nhất là, những 'lãnh thổ khác' này bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, vốn bị Nhật cưỡng chiếm bằng vũ lực từ tay Pháp, chứ không phải từ TQ.
Tuy nhiên, Freeman (năm 2015) lập luận rằng, vì nhà chức trách Nhật đã sáp nhập các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Đài Loan của họ, nên tuyên bố Cairo trao trả lại chúng, cùng với phần còn lại của "tỉnh Đài Loan" cho TQ.
Nhưng, thực tế, tuyên bố không đề cập tới từ "Đài Loan". Nó chỉ nêu về Formosa và quần đảo Pescadores. Kết luận logic là, chỉ có các đảo cụ thể này đã được các đồng minh nhất trí rằng sẽ được trả về TQ.
Sự đầu hàng của Nhật ở Hoàng Sa
Báo cáo của Trung tâm Phân tích hải quân Mỹ và bài thuyết trình của Đại sứ Freeman đều khẳng định rằng, các lực lượng của TQ là những người đã tiếp nhận sự đầu hàng của các đơn vị đồn trú Nhật tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào cuối Thế chiến 2.
Freeman lập luận rằng, hải quân Mỹ đã thực sự chuyên chở các lực lượng TQ tới các quần đảo vì mục đích này. Khi tôi liên lạc với tác giả, ông không thể cung cấp bất kỳ bằng chứng chứng thực nào cho sự khẳng định này.
Dựa vào chứng cứ từ hồ sơ lưu trữ quân sự của Mỹ và Australia, sự kiện này dường như ít khả năng có thực. Trong chiến tranh, Nhật đã có các căn cứ quân sự ở trên các đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa và đảo Ba Bình ở Trường Sa.
Đảo Phú Lâm bị tàu ngầm USS Pargo nã pháo vào ngày 6/2/1945 và vào ngày 8/3/1945, một máy bay Mỹ đã ném bom cả đảo này và đảo Hoàng Sa.
Khi một tàu ngầm khác, USS Cabrilla, viếng thăm đảo Phú Lâm vào ngày 2/7, cờ tam tài của Pháp đang tung bay, nhưng lần này có thêm một lá cờ trắng phía trên nó.
Đảo Ba Bình bị các máy bay Mỹ ném bom napal vào ngày 1/5/1945. Sáu tháng sau, Hải quân Mỹ đã cử một phái đoàn tái thiết tới đảo Ba Bình. Họ đổ bộ vào ngày 20/11/1945 và phát hiện, hòn đảo này không bị chiếm đóng, do quân Nhật đã tháo chạy.
Mãi tới hơn một năm sau, tháng 12/1946, một biệt đội đổ bộ của TQ, sử dụng các tàu chiến cũ của Mỹ vừa được chuyển giao cho Trung Hoa dân quốc, mới có thể tiếp cận đảo. (Pháp đã tới đó 2 tháng trước và giành lại đảo, nhưng điều này hiếm khi được đề cập tới trong các nguồn của TQ).
Cái tên TQ cho đảo Ba Bình là đảo Thái Bình, đặt theo tên của tàu chiến đã đưa đội đổ bộ của TQ. Thái Bình có tên trước đó là USS Decker.
Điều hài hước là, nếu Mỹ không cung cấp các tàu chiến đó, TQ sẽ không có tuyên bố chủ quyền với quần đảo Trường Sa như ngày nay.
Phiên bản mới lịch sử sai lầm
Xem xét các bằng chứng có thể xác thực được đã hé lộ một lịch sử khác về các quần đảo ở Biển Đông, thay vì những điều được tìm thấy trong hầu hết các tài liệu tham khảo phổ biến hiện nay.
Mối quan tâm của TQ đối với chúng chỉ bắt đầu từ thế kỷ 20. Không có bằng chứng về việc bất kỳ quan chức chính phủ nào của TQ từng ghé thăm quần đảo Hoàng Sa trước ngày 6/6/1909.
Chỉ mãi tới năm 1933, sự chú ý của quốc gia này mới hướng tới quần đảo Trường Sa và vào thời điểm đó, TQ quyết định không thúc ép tuyên bố chủ quyền đối với chúng.
Sự chú ý được khôi phục ngay sau Thế chiến thứ hai, dựa vào các hiểu lầm về những gì đã xảy ra vào năm 1933 và lần đầu tiên, một quan chức TQ đã đặt chân tới quần đảo Trường Sa vào ngày 12/12/1946.
Vào những năm 1933, 1956, 1974 và lại một lần nữa, trong hiện tại, lịch sử của các quần đảo đã liên tục được viết và viết lại.
Trong mỗi cuộc khủng hoảng đó, những người ủng hộ lập trường của TQ lại tạo ra một phiên bản mới của lịch sử mà thường tái chế lại những sai lầm trước đó và đôi khi còn bổ sung thêm những sai lầm của chính họ.
Và vào thời điểm giữa những năm 1970 khi những tài liệu này vượt qua được rào chắn ngôn ngữ để tới thế giới nói tiếng Anh, những nền tảng không vững chãi của chúng lại trở thành những căn cứ vững chắc cho những ai mới bắt đầu khám phá lịch sử.
Chúng được in trong những tạp chí học thuật của phương Tây và trở thành "sự thật." Nhưng một sự xem xét nguồn tham khảo đã tiết lộ những điểm yếu cố hữu của chúng.
Đã không còn thích hợp cho những người ủng hộ tuyên bố chủ quyền của TQ dựa vào những bằng chứng vô căn cứ như vậy cho lập luận của họ.
Đã đến lúc cần có một nỗ lực phối hợp nhằm xem lại các nguồn then chốt cho nhiều khẳng định được các cây bút trên đưa ra và đánh giá lại độ chính xác của chúng.
Giải pháp cho các tranh chấp phụ thuộc vào việc này, cả ở trong các phòng xử án của The Hague và trong các vùng nước ở Biển Đông.
Mời bạn đọc bài viết gốc tựa đề "Fact, Fiction and South China Sea" được đăng trên The Asia Sentinel ngày 25/5/2015.
Theo Bill Hayton (Dịch: Thanh Bình - Dự án Đại sự ký Biển Đông)
Vietnamnet
Nga tự đóng tàu đổ bộ chở trực thăng, không cần sao chép tàu Mistral Ngày 26-5, một quan chức cao cấp thuộc ngành công nghiệp quốc phòng Nga tuyên bố, nước này có kế hoạch sẽ đóng các tàu sân bay chở trực thăng của riêng mình, nhưng là một lớp khác chứ không phải là bản sao của các tàu lớp Mistral của Pháp. "Chúng tôi có kế hoạch đóng những loại tàu như vậy, nhưng...