Loại quả gắn liền tuổi thơ đang gây ’sốt’ chỉ có người sành ăn mới biết
Một loại quả tuy lạ nhưng lại gắn liền với tuổi thơ của nhiều người. Đặc biệt, chỉ có những người sành ăn mới hiểu rõ vị ngon của quả này. Hãy cùng Bách hoá XANH khám phá xem đó là loại quả gì nhé!
Vốn là thứ quả quê đặc trưng ở các vùng như Phú Thọ, Nghệ An và Hà Tĩnh, quả cọ ngày nay đã trở thành đặc sản “đắt khách” tại Việt Nam. Loại quả này sở hữu vị bùi bùi, lạ miệng và có thể chế biến thành nhiều món ngon hấp dẫn. Hãy cùng Bách hoá XANH khám phá quả cọ có gì đặc biệt nhé!
1Quả cọ là gì?
Phần lớn, quả cọ tập trung nhiều nhất ở các tỉnh miền Trung và miền Bắc tại Việt Nam. Loại quả này thuộc cây cọ dầu, thân cây to và cao, chi chít gai. Từ cuối tháng 10 đến đầu tháng 11 hằng năm, quả cọ bắt đầu chín và lớp vỏ ngoài chuyển màu xanh đậm, nâu bóng. Đồng thời, lớp cùi dày bên ngoài chứa nhiều dầu và bên trong là nhân cọ.
Người dân thường hái những quả cọ bằng cây cù lèo (lấy liềm buộc vào cây sào). Cách này giúp cho quả cọ không bị xây xát và đảm bảo được hương vị tươi ngon. Ngoài ra, cọ ngon nhất thường được thu hoạch từ những cây lâu năm không bị tỉa lá, cao vút và bắc thang không tới.
Theo dân địa phương chia sẻ quả cọ có vị khá chát nên họ thường ỏm (làm chín) để tăng độ bùi, ngọt và béo ngậy. Sau khi thu hoạch, quả cọ sẽ được đem đi rửa sạch và xóc lẫn với những mảnh cật nứa già cho bong vỏ. Kế tiếp, người dân tiếp tục cho nước sôi lăn tăn khoảng 85 – 90 độ C vào chậu cọ và để thêm khoảng 1 5-20 phút là cọ chín mềm.
Nếu nước quá nóng, quả cọ sẽ teo lại, ăn cứng và chát. Còn khi nấu quá lâu, loại quả này sẽ mềm nhũn và giảm đi vị béo bùi đặc trưng. Bởi thế, người làm phải cực kỳ khéo léo và kỳ công thì mới có thể cho ra những mẻ cọ ngon.
Cọ sau khi ỏm có vị béo bùi đặc trưng
2Giá của quả cọ?
Quả cọ có 2 loại là cọ nếp và cọ tẻ (cọ thường). Hương vị của cả hai khá giống nhau và chỉ khác nhau ở độ mềm, dẻo ở cùi. Cọ nếp ăn ngọt, bùi hơn nên thường có giá khoảng 100.000 đến 110.000 đồng/kg.
Video đang HOT
Còn cọ tẻ có giá từ 60.000 – 65.000 đồng/kg. Bên cạnh đó, nếu khách hàng có nhu cầu muốn mua cọ ỏm, một số nơi sẽ ỏm luôn và tính thêm tiền công 5.000 đồng/kg. Không chỉ là món ăn vặt làm “nức lòng” giới văn phòng, quả cọ còn làm nguyên liệu để tạo nên nhiều món ăn ngon.
Quả cọ có hai loại là cọ nếp và cọ tẻ
3Các món ngon từ quả cọ
Cọ ỏm
Những quả cọ sau khi ỏm xong thường có màu nâu sẫm và mềm. Bạn chỉ việc lấy tay bóp và thưởng thức phần nhân vàng ươm bên trong. Khi ăn chấm với chút nước mắm hoặc muối vừng, cọ càng dậy lên vị thơm béo bùi lạ miệng.
Xôi cọ
Món xôi cọ được chế biến từ hai nguyên liệu chính là quả cọ và gạo nếp nương. Chính vì thế, món ăn có hương vị rất riêng biệt không lẫn với bất kì món nào. Bạn sẽ ngay lập tức cảm nhận được hương thơm thoang thoảng từ quả cọ bay khắp gian nhà.
Bánh dày “xứ cọ”
Ở nhiều vùng, người ta sử dụng cọ nếp để làm bánh dày. Món bánh dày thơm và dẻo. Khi ăn thử sẽ cảm nhận được hương vị đặc trưng của cọ nếp. Chỉ cần nhìn thôi cũng đủ khiến bạn tò mò về hương vị rồi đúng không nào?
Dưa cọ
Ngoài món cọ ỏm truyền thống, người dân còn sử dụng quả này để biến tấu ra món dưa cọ ngày Tết. Dưa cọ có vị mặn của muối, vị béo bùi của cọ. Bạn có thể ăn cùng với cơm hoặc ăn vặt đều rất ngon.
Cọ kho cá hoặc kho thịt
Quả cọ có khả năng khử hết mùi tanh của cá, cũng như làm giảm đỡ ngấy khi kho thịt heo mỡ. Thưởng thức một miếng cọ kho và cảm nhận ngay độ dẻo, bùi bùi trong miệng, bạn sẽ thấy cả một bầu trời tuổi thơ ùa về đấy.
Trên đây là những thông tin thú vị về quả cọ gắn liền với tuổi thơ mà Bách hoá XANH muốn chia sẻ đến bạn. Hãy thử chế biến nguyên liệu này để đổi vị cho bữa cơm gia đình nhé. Cảm ơn bạn đã theo dõi!
Bánh dày - lễ vật trong cưới hỏi của người Tày
Tại Việt Nam, nghi thức cưới hỏi ở mỗi vùng miền, mỗi dân tộc đều có những nét riêng, mang bản sắc văn hóa độc đáo. Đối với người Tày, ngoài trầu cau, trà nước, rượu, xôi, gà... thì bánh dày luôn là lễ vật bắt buộc trong mỗi lễ cưới.
Khóc thét trước những món đồ kỳ lạ được "hoàng thượng" tha về cho chủ "Đầm lầy cầu vồng" đẹp như chốn thần tiên chỉ người may mắn mới bắt gặp Ngỡ ngàng trước bản làng người Dao, thích hợp cho chuyến trải nghiệm du lịch ộng đồng
Ngay từ xa xưa, tư tưởng về dựng vợ gả chồng của người Tày đã khá tiến bộ khi hầu hết các chàng trai, cô gái Tày đều có thể tự do tìm hiểu trước khi xin phép cha mẹ hai bên về "chung một nhà".
Khi đó, gia đình chàng trai sẽ cử người sang nhà gái xin được "xem duyên số" của đôi trẻ bằng cách mang họ tên, ngày, tháng, năm sinh của người con gái nhờ thầy Tào giúp đỡ, chọn ngày lành tháng tốt tổ chức lễ ăn hỏi, sau đó là đám cưới. Ngày ăn hỏi, nhà trai phải chuẩn bị lễ sang nhà gái. Hai bên sẽ cùng bàn bạc, thống nhất việc tổ chức đám cưới cho đôi trẻ, trong đó có việc thỏa thuận các lễ vật nhà trai phải đem sang nhà gái.
Bánh dày được nhà trai chuẩn bị để mang sang nhà gái trước lễ cưới.
Bà Nông Tuyết Loan (huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng) cho biết xưa đồ lễ thường chỉ là lợn, gà, xôi nếp, tiền mặt... nhưng bây giờ có thêm cả thuốc lá, bia, nước ngọt. Nhưng thời nào thì đồ lễ cũng không thể thiếu bánh dày. Số lượng bánh dày dùng làm sính lễ trong đám cưới phụ thuộc vào số lượng họ hàng nhiều hay ít, do nhà gái và nhà trai tự thỏa thuận.
"Theo tục lệ ở địa phương tôi thì thường nhà gái sẽ yêu cầu nhà trai lấy tiền mặt, 120 cái bánh dày nhỏ, mâm lễ cúng bàn thờ tổ tiên gồm có 2 con gà luộc, 2 chai rượu có dán giấy đỏ ở cổ chai. Nếu trong gia đình có các em của cô dâu chưa dựng vợ gả chồng thì nhà trai phải có cây hoa lì xì cho các em. Riêng bánh dày thì có quy định rồi, đó là quà của gia đình chú rể cho anh em, họ hàng thân thích bên nhà gái, mỗi gia đình một cặp, rồi đến khi cặp vợ chồng trẻ sinh em bé, những người được phát bánh họ sẽ đem 1 cái chân giò hoặc một con gà sống và 12 bơ gạo nếp đến thăm trong thời gian cháu gái mình ở cữ" - bà Nông Tuyết Loan nói.
Khách mời là họ hàng thân thích đến dự đám cưới, mỗi người sẽ được chia một cặp bánh mang về.
Vài hôm trước ngày cưới, không khí chuẩn bị tại nhà chú rể sẽ hết sức náo nhiệt. Gia chủ sẽ nhờ những người phụ nữ trong dòng họ, những người trong làng đến để giã bánh dày. Ai cũng vui vẻ đến giúp gia đình vì đây là dịp để mọi người trong họ, trong làng bày tỏ niềm vui, chúc phúc cho con cháu mình.
Gạo được chọn để giã bánh dày là gạo nếp ngon, sau khi gạo được đồ chín sẽ cho vào những chiếc cối bằng gỗ để giã nhuyễn rồi đem ra nặn. Theo bà Nông Thị Khiến (xã Chu Trinh, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng), đối với bánh loại nhỏ, nhân bánh là vừng đen giã mịn trộn với đường mật hoặc nhân đỗ xanh. Riêng cặp bánh to nhất, còn gọi là cặp "bánh mẹ" (péng me) không có nhân. Bù lại, sẽ lấy mực từ nước quả mồng tơi chín nhuộm một mặt để có màu đỏ tím, mặt còn lại viết lên chữ "phúc" hoặc chữ "hỷ".
Bà Nông Thị Khiến cho biết, tục lấy bánh dày làm lễ cưới của người Tày có từ xa xưa rồi, nhưng bây giờ không nặng nề như ngày xưa nữa. Tùy vào từng nhà, có nhà thì yêu cầu lấy 100 cái bánh để phát họ, còn một số gia đình chỉ yêu cầu nhà trai lấy bánh để cúng bàn thờ tổ tiên. Bánh đặt lên bàn thờ thì được làm to hơn, gọi là bánh mẹ và chỉ yêu cầu lấy 1 đôi, còn bánh phát họ thì to bằng cái bát con, phát cho mỗi gia đình 1 đôi. Có gia đình thì yêu cầu nhà trai đem bánh dày sang từ hôm ăn hỏi để phát họ, nhưng cũng có nhiều gia đình chỉ yêu cầu gói gọn trong ngày cưới để phát cho những người đã mời đến lễ ăn hỏi.
Trước lễ cưới một ngày, nhà trai sẽ mang bánh dày sang nhà gái và phần lớn số bánh dày này sẽ được chia cho khách mời đến dự đám cưới, mỗi người một cặp. Cụ Nguyễn Thị Lụy (xã Quang Minh, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang) cho biết, riêng người Tày ở xã Quang Minh, huyện Bắc Quang, đồ lễ được mang sang nhà gái trước hôm cưới một ngày (trước hôm đón dâu gọi là "Đam lệ"). Hôm đó bên nhà gái chờ họ hàng sang rồi mang bánh ra ăn cùng nhau, chỉ để lại 2 cái bánh cốm, 2 cái bánh dày và 2 cái bánh chưng để hôm đón dâu cúng tổ tiên. Tất cả đồ lễ thịt lợn, gà, bánh trái đều được nhà trai mang sang nhà gái từ ngày "Đam lệ".
Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, có thời điểm ở một số vùng đồng bào Tày, Nùng việc "đòi lễ" là bánh dày được coi là không cần thiết và gây phiền phức. Tuy nhiên, những năm gần đây, cùng với xu hướng tìm về những giá trị truyền thống của dân tộc như trang phục, ẩm thực, nhiều gia đình cũng quay trở lại với tục lệ chia quà cho khách dự cưới là bánh dày. Tùy điều kiện, thời gian của nhà trai, số lượng bánh có thể chỉ mang tính tượng trưng nhưng nhất thiết phải có cặp "bánh mẹ" (péng me) để dành dâng cúng trên bàn thờ tổ tiên, cầu mong may mắn, sức khỏe cho đôi vợ chồng trẻ; mùa màng bội thu, cuộc sống no ấm cho bản, cho làng.
Bánh dày - Đặc sản của người Mông ở Điện Biên Tết của đồng bào Mông không thể bỏ qua đặc sản bánh dày: món quà thiên nhiên ban tặng, tượng trưng cho trái đất tròn, môi trường sinh thái trong lành. Thưởng thức hương vị thơm ngon, thuần khiết của bánh dày nhưng ít ai nghĩ làm bánh dày của người Mông kỳ công ra sao, kén chọn chất liệu làm bánh như...