Liệu Ấn Độ có thể thay thế Trung Quốc trở thành ‘công xưởng mới’ của thế giới?
Đại dịch COVID-19 có thể đang thực hiện điều mà ông Donald Trump chưa làm được trong nhiệm kỳ Tổng thống của mình, đó là chuyển chuỗi cung cứng toàn cầu ra khỏi Trung Quốc lần đầu tiên sau 40 năm.
Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi phát biểu tại lễ khai mạc “Tuần lễ Make in India” ở Mumbai năm 2016. Ảnh: AFP
Theo báo Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng, trong năm 2018 và 2019, ông Trump đã áp thuế cứng rắn đối với Trung Quốc để đáp trả điều mà ông gọi là các thoả thuận thương mại không công bằng với Mỹ. Động thái này nhận được phản ứng mạnh mẽ từ Bắc Kinh và châm ngòi cho cuộc chiến thương mại giữa hai cường quốc hàng đầu thế giới.
Và trong khi nhiều doanh nghiệp rục rịch thảo luận về việc chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc như một biện pháp để tránh khỏi các rủi ro địa chính trị, thì đại dịch COVID-19 đã cho thấy những tác động tiêu cực của việc phụ thuộc quá mức vào chuỗi cung ứng của một quốc gia.
Ông Ashutosh Sharma, Giám đốc nghiên cứu của Công ty nghiên cứu thị trường Forrester, nhận định: “Những căng thẳng địa chính trị có thể không dẫn đến việc tổ chức lại chuỗi cung ứng này, nhưng đại dịch COVID-19 chắc chắn đã tạo ra tầm nhìn mới, ‘mồi thêm lửa’ cho quyết định này”.
“Gã” khổng lồ công nghệ Apple chính là minh chứng lớn nhất của việc phụ thuộc quá mức vào dây chuyền sản xuất của Trung Quốc. Sản lượng iPhone bị ảnh hưởng nặng nề khi Trung Quốc kiên trì theo đuổi chiến lược không khoan nhượng với COVID-19. Apple đang tăng tốc đẩy mạnh việc chuyển dây chuyền sản xuất ra khỏi Trung Quốc sang các nước châu Á khác. Nhưng rời đi đâu vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.
Sau khi Chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden áp đặt các biện pháp kiểm soát xuất khẩu đối với việc vận chuyển thiết bị đến các nhà máy sản xuất chip của Trung Quốc vào tháng 10, đối với Foxconn – nhà cung cấp lớn của Apple – lựa chọn hàng đầu là Ấn Độ. Các nhà sản xuất chip khác cũng có lựa chọn tương tự.
Ông Julie Gerdeman, Giám đốc điều hành Nền tảng quản lý rủi ro chuỗi cung ứng Everstream, cho biết: “Ấn Độ có nguồn lao động dồi dào, lịch sử sản xuất lâu đời và sự hỗ trợ của chính phủ để thúc đẩy ngành công nghiệp và xuất khẩu. Bởi lẽ đó, nhiều chủ doanh nghiệp đang tìm hiểu xem liệu ngành sản xuất của Ấn Độ có phải là một giải pháp thay thế khả thi cho Trung Quốc hay không.”
Nhưng việc rời đi “nói dễ hơn làm”.
Ấn Độ không phải là nơi kinh doanh dễ dàng nhất
Video đang HOT
Một khu chợ ở New Delhi. Ảnh: AP
Là một nền kinh tế lớn với dân số trẻ, Ấn Độ có tiềm năng trở thành một cường quốc sản xuất. Tuy nhiên, quốc gia Nam Á này cũng nổi tiếng với nạn quan liêu.
“Ấn Độ không giống như những quốc gia mà các doanh nghiệp có thể đến, mở một cửa hàng mà không cần tuân thủ quá nhiều quy định”, ông Sharma, người có doanh nghiệp tại Ấn Độ cho biết.
Ấn Độ đứng ở vị trí thứ 63 trong danh sách 190 quốc gia được Ngân hàng Thế giới xếp hạng dựa trên mức độ kinh doanh thuận lợi vào năm 2019. Mặc dù vị trí này đã cải thiện hơn so với vị trí thứ 142 vào năm 2014, Ấn Độ vẫn đứng sau Trung Quốc, quốc gia đứng ở vị trí thứ 31 vào năm 2019. Năm 2019 là năm cuối cùng Ngân hàng Thế giới tổng hợp chỉ số này do bê bối gian lận dữ liệu.
Ngoài ra, theo ông Gerdeman, Trung Quốc có nhiều nhà máy sản xuất ở quy mô lớn, trong khi hầu hết các nhà máy ở Ấn Độ đều có quy mô vừa và nhỏ do các quy định ở nước này chỉ được thiết kế dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thiếu liên kết
Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi (thứ ba từ trái sang) cùng cựu Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in (thứ hai từ trái sang) tại lễ khánh thành cơ sở sản xuất điện thoại thông minh Samsung Electronics ở Noida, Ấn Độ. Ảnh: Reuters
Kể từ khi nhậm chức vào năm 2014, Thủ tướng Modi đã nỗ lực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đưa vốn FDI lên mức kỷ lục 83,6 tỷ USD trong năm tài chính vừa qua, theo dữ liệu của chính phủ.
“Ấn Độ chắc chắn có lợi thế về nhân khẩu học, về địa lý. Về cơ sở hạ tầng hiện có, phần lớn cũng đã được xây dựng trong vài năm qua. Rõ ràng quốc gia này có thể mở rộng quy mô, nhưng thứ mà Ấn Độ thiếu chính là sự liên kết”, ông Sharma nhận định.
Ông giải thích rằng Trung Quốc đã xây dựng dây chuyển sản xuất lớn đến mức hầu hết nguyên vật liệu cần thiết để tạo ra một sản phẩm đều có thể được cung cấp và mua trong nước. Điều này cho phép các công ty sản xuất với chi phí thấp trên quy mô lớn. Ngược lại, Ấn Độ chưa có khả năng này và phải mất nhiều năm để xây dựng.
“Chuỗi cung ứng đó cần có thời gian để xây dựng, vì ngay cả khi doanh nghiệp tìm được nguồn cung ứng trong nước, chất lượng ban đầu có thể không tốt, quy mô không cao. Song điều này vẫn có thể được thực hiện, nhưng cần có thời gian,” ông Sharma nói.
Nhiều công ty thận trọng
Công nhân kiểm tra thiết bị tại cơ sở sản xuất dược phẩm ở Visakhapatnam, Ấn Độ. Ảnh:Bloomberg
Các chuyên gia cho rằng các công ty khó có thể ồ ạt đổ xô đến Ấn Độ, giống như những gì đã diễn ra ở Trung Quốc sau minh chứng rủi ro khi phụ thuộc quá lớn vào chuỗi cung ứng của một đất nước.
Không chỉ Foxconn và Apple dốc toàn lực vào Trung Quốc đang chịu thiệt hại vì điều này. Thương hiệu đồ thể thao Nike của Mỹ, nhà sản xuất ô tô Nhật Bản Toyota và gã khổng lồ công nghệ Hàn Quốc Samsung đều nằm trong số nhiều công ty gặp vấn đề về chuỗi cung ứng kéo dài.
“Những công ty này đang tìm cách đa dạng hóa nguồn cung. Nếu nhìn vào Foxconn và Apple, họ đã chuyển một phần đáng kể hoạt động sản xuất sang Ấn Độ và tôi chắc chắn là sang các quốc gia khác, như Việt Nam và một số nơi khác. Từ việc phụ thuộc vào một quốc gia – như Trung Quốc, họ đang chuyển sang đa dạng hóa một vài địa điểm”, ông Sharma nói.
Điều này có nghĩa là các chuỗi cung ứng cũng sẽ phức tạp hơn, nhưng sẽ được đa dạng hóa tất cả từ các khâu nguyên liệu thô. Theo vị chuyên gia này, nếu các công ty có thể xây dựng hai hoặc ba chuỗi cung ứng tin cậy, họ vẫn sẽ có các nguồn cung thay thế ngay cả khi một địa điểm nào đó gặp rủi ro trong tương lai.
Nga lập đội 103 tàu chở dầu để lách lệnh trừng phạt, Tổng thống Ukraine nói về áp trần giá dầu Nga
Tờ Financial Times đưa tin rằng Nga đã tập hợp một đội tàu để tránh các lệnh trừng phạt dầu mỏ của phương Tây.
Tàu chở dầu Nga ở Thổ Nhĩ Kỳ. Ảnh: Getty Images
Theo nguồn tin này ngày 3/12, Nga đã âm thầm tập hợp 103 tàu chở dầu lâu năm.
Công ty tư vấn năng lượng Rystad cho biết, Nga đã nắm quyền kiểm soát số tàu chở dầu này kể từ đầu năm 2022 bằng cách mua một số tàu và sử dụng lại một số tàu từng vận chuyển dầu đến, đi từ Iran hoặc Venezuela.
Vào ngày 2/12, Liên minh châu Âu (EU) và Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7) cuối cùng đã đồng ý áp trần giá dầu thô vận chuyển bằng đường biển của Nga ở mức 60 USD/thùng. Quyết định này được đưa ra sau nhiều tuần tranh luận giữa các quốc gia. Các nước như Ba Lan và các quốc gia vùng Baltic cho rằng mức trần đề xuất là quá cao. Trong khi đó, một số quốc gia có biển như Hy Lạp muốn mức trần được đặt ở mức khoảng 70 USD/thùng.
Các công ty phương Tây sẽ bị cấm bảo hiểm hoặc cấp tài chính cho các tàu chở dầu thô Nga trừ khi dầu được bán với giá dưới 60 USD/thùng theo quy định mới.
Hồi tháng 10, Giám đốc Ngân hàng VTB, Andrey Kostin, cho biết rằng Nga đã phải chi ít nhất 16,2 tỷ USD để mở rộng đội tàu chở dầu. Các nhà phân tích phương Tây giải thích tuyên bố này có nghĩa là Nga đang đầu tư vào các tàu chở dầu thô rất lớn (VLCC), tàu chở dầu Suezmax và tàu chở dầu Aframax. Mỗi tàu VLCC có thể chứa tới 2 triệu thùng dầu thô, tàu chở dầu Suezmax có thể chở tới 1 triệu thùng, còn tàu chở dầu Aframax chứa tới 700.000 thùng.
Theo Financial Times, các nhà quan sát quốc tế đã nhận xét rằng Nga có thể sẽ sử dụng đội tàu trên để bán khối lượng năng lượng ngày càng tăng cho các quốc gia như Ấn Độ, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ vốn không chịu lệnh trừng phạt của EU hoặc Mỹ.
Sau khi EU và G7 áp giá trần dầu Nga, ngày 3/12, Điện Kremlin cho biết Nga sẽ không chấp nhận mức giá trần này. Người phát ngôn Điện Kremlin Dmitry Peskov nêu rõ Nga sẽ phân tích tình hình và sau đó Nga sẽ cho biết phản ứng của mình.
Nga cũng khẳng định sẽ tiếp tục tìm được khách hàng mua dầu mỏ của nước này và cho rằng việc các chính phủ phương Tây áp giá trần đối với dầu mỏ Nga là động thái nguy hiểm.
Trong bài đăng trên Telegram, Đại sứ quán Nga tại Mỹ chỉ trích động thái trên là định hình lại các nguyên tắc thị trường tự do, đồng thời khẳng định thế giới vẫn có nhu cầu đối với dầu mỏ Nga bất chấp những biện pháp trên. Bài đăng nhấn mạnh những biện pháp như vậy sẽ không tránh khỏi dẫn tới những hậu quả làm gia tăng bất ổn và khiến khách hàng phải trả chi phí cao hơn.
Trong khi đó, ngày 2/12, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky cho biết mức giá trần 60 USD đối với dầu Nga là không đáng kể và sẽ ít có tác dụng. Ông cho rằng áp đặt giá trần dầu Nga ở mức này sẽ làm ngân sách Nga tăng thêm 100 tỷ USD mỗi năm. Trước đó, Chánh văn phòng Tổng thống Ukraine Andriy Yermak cho hay mức trần dầu Nga nên là 30 USD/thùng.
Simone Tagliapietra, chuyên gia về năng lượng từ viện nghiên cứu Bruegel, trụ sở tại Brussels, Bỉ cũng cho rằng con số 60 USD, ở điều kiện thị trường hiện tại, sẽ không gây hại cho Nga mà nó chủ yếu chỉ đáp ứng mong muốn của Mỹ là ngăn giá dầu tiếp tục tăng.
Về phần mình, Ngoại trưởng Hungary Peter Szijjarto tuyên bố trên tài khoản mạng xã hội: "Liên minh châu Âu đang đưa ra mức trần đối với giá dầu. Tuy nhiên, đã đến lúc EU nhận ra rằng điều này và các biện pháp tương tự gây tổn hại nhiều nhất cho nền kinh tế châu Âu".
Iran tiến gần hơn tới việc gia nhập SCO Quốc hội Iran đã thông qua các văn kiện gia nhập Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO). Hội nghị thượng đỉnh Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) tại Samarkand, Uzbekistan, ngày 16/9/2022. Ảnh: Sputnik Quốc hội Iran đã thông qua hàng chục nghị định thư về việc nước này gia nhập Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), một khối an...