Lễ Đôlta chờ đón hội đua bò
Ngày 4.10, Sene Đôlta – 1 trong 4 lễ hội lớn của đồng bào dân tộc Khmer chính thức diễn ra. Nét đặc trưng được chờ đón nhất của lễ hội này là hội đua bò của đồng bào Khmer vùng Bảy Núi (An Giang).
Lễ Đôlta – lễ báo hiếuSene Đôlta có nghĩa là cúng ông bà, còn gọi là lễ mừng tuổi, lễ tạ ơn. Anh Chau Tranh – Phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa huyện Tri Tôn cho biết: “Mỗi năm, người Khmer lại tổ chức lễ Sene Đôlta để con cháu trong gia đình biết ơn ông bà đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành. Lễ nghi này mang đậm nét văn hóa phi vật thể, ảnh hưởng tín ngưỡng triết lý Phật giáo của các dân tộc thuộc hệ văn minh lúa nước vùng Đông Nam Á”.
Dàn nhạc ngũ âm của xã Vĩnh Trung, huyện Tịnh Biên (An Giang) đang tập luyện cho ngày lễ hội Đôlta.
Năm nay, chính lễ Sene Đôlta rơi vào ngày 30.8 âm lịch (kết thúc vào ngày mùng 2.9 âm lịch). Ngay từ trước chính lễ khoảng nửa tháng, khắp các phum sóc vùng Bảy Núi đã chộn rộn không khí đón lễ. Chùa chiền được sơn phết lại, trang hoàng cờ lễ tinh tươm. Phật tử Khmer nhà nhà đều lo dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa, sửa soạn bàn thờ ông bà, tổ tiên. Những gia đình có điều kiện thì tổ chức gói bánh tét, bánh ít để kịp nấu cúng ông bà trong ngày chính lễ.
Đến đầu phum Vĩnh Tây, xã Vĩnh Trung, huyện Tịnh Biên, nơi có tỷ lệ người Khmer cao nhất vùng Bảy Núi, chúng tôi đã thấy nhiều gia đình lo phơi lá chuối để gói bánh tét. Đang cùng gia đình soạn sửa chiếc lò to để đun ngoài trời chuẩn bị nấu nồi bánh tét lớn, ông Chau Bua dừng tay, cho biết: “Ngày càng ít người gói bánh này vì nó mất nhiều thời gian, tốn nhiều công, nên đến ngày lễ họ ra chợ mua cho tiện. Riêng gia đình tôi thì quen rồi, năm nào cũng gói bánh và nấu đến khuya để sáng sớm cúng ông bà”. Trong những ngày diễn ra lễ hội, buổi sáng từng nhà, mọi người chuẩn bị mâm cơm cùng thức ăn và bánh trái ngon mang đến chùa, tổ chức thành lễ hội chung của phum sóc (ấp).
Lễ Đôlta – hội đua bòTrong những ngày Sene Đôlta, hoạt động được mọi người háo hức, chờ đón nhất chính là hội đua bò. Anh Chau Tranh cho biết thêm: “Cũng như các trò chơi dân gian khác, ban đầu những cuộc đua bò có tính ngẫu hứng, đơn lẻ, tự phát, nhưng từ năm 1990 đã được định hình và trở thành phong trào khá sôi nổi. Nhận thấy nét đẹp, sức hấp dẫn độc đáo từ môn thể thao dân dã và lành mạnh này, Nhà nước đã tích cực hỗ trợ mọi mặt và chính thức đứng ra tổ chức hội đua bò truyền thống lần đầu tiên vào năm 1991. Từ đó đến nay, cứ vào dịp lễ Đôlta của đồng bào Khmer An Giang, hội đua bò lại được tổ chức”.
An Giang hiện có hơn 90.000 người dân tộc Khmer, chiếm 4,2% tổng dân số và chiếm 75% tổng số đồng bào DTTS trong tỉnh.
Trong những ngày này ở Bảy Núi là không khí tập luyện đua bò ngoài ruộng. Vừa một lượt tập dượt cho đôi bò tại một sân ruộng ở phum Vĩnh Tây, anh Chau Ri Chuôh hào hứng cho biết: “Chỉ còn mấy ngày nữa là thi đấu rồi, tôi cho bò tập nhẹ thôi. Xã Vĩnh Trung này là nơi có nhiều bò đua nhất và cũng có nhiều người đoạt giải cao so với các xã ở 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên”. Và kể từ năm 1991, các hội đua bò đã được nâng lên thành lễ hội truyền thống. Ban đầu là cấp huyện, sau này là cấp tỉnh rồi cấp quốc gia. Hiện nay hội đua bò có tên gọi “Lễ hội đua bò Bảy Núi mở rộng”, vì có cả bò đến từ nước bạn láng giềng Campuchia.
Tiếp câu chuyện về "ấp người mù" ở miền Tây
Ở huyện Vĩnh Châu (Sóc Trăng), có một ấp của người Khmer, mà người dân trong vùng gọi là "ấp mù". Bởi lẽ, ấp này có rất nhiều người mù.
Những người mù ở ấp Đại Bái tụ tập trò chuyện, hóng mát
Ông Lâm Âu, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ xã Lạc Hòa (Vĩnh Châu, Sóc Trăng), vừa dụi mắt vì bệnh tắc tuyến lệ, vừa giở cuốn sổ đọc to cho tôi nghe tên, tuổi, địa chỉ của từng bệnh nhân có vấn đề về mắt, mà ông theo dõi, thống kê suốt mười mấy năm nay.
Tôi thực sự choáng váng, khi trong danh sách thống kê của ông, xã Lạc Hòa có tới 250 người mù. Tuy nhiên, ông Âu còn khẳng định, đấy chỉ là con số ông thống kê sơ bộ. Còn con số thực tế cao hơn nữa.
Video đang HOT
Vì số lượng người mù quá lớn, lại liên tục tăng cao, nên mỗi ấp thường có thêm một cán bộ nữa theo dõi. Ông Lâm Tha, người được phân công lập danh sách số lượng người mù ở ấp Đại Bái cung cấp con số hãi hùng: Ấp Đại Bái chỉ có 300 hộ, nhưng có đến 100 người mù. Tính ra, cứ 3 hộ gia đình thì có 1 người mù. Nói không ngoa, ở ấp này, ra ngõ gặp người mù.
Ấp Đại Bái với những ngôi nhà lúp xúp, tạm bợ
Ông Lâm Âu dẫn tôi xuống ấp Đại Bái, để tôi được lạc vào "xứ sở bóng tối". Ấp Đại Bái cũng nghèo như vô số ấp ở khác trong vùng, với những mái nhà lúp xúp dưới rặng tre.
Đang giờ sáng, thanh niên ra đồng làm việc, hoặc vác lưới ra biển kiếm con cá, con ngao. Trong ấp chỉ còn lại toàn người già và trẻ con. Tôi thực sự ấn tượng với hình ảnh các cụ già ngồi hóng mát dưới gốc tre. Nghe tiếng bước chân và tiếng nói lạ từ nhóm chúng tôi, các cụ vểnh tai nghe ngóng.
Tưởng chúng tôi là đoàn bác sĩ, các cụ nhao nhao giơ tay đòi được khám mắt, được hỗ trợ mổ mắt miễn phí, được ghép giác mạc, đòi được hỗ ít gạo sống qua ngày... Tôi đã kịp ghi lại hình ảnh các cụ già bị mù ngồi la liệt dưới bóng tre. Hình ảnh ấy có lẽ chỉ có ở trung tâm chăm sóc, nuôi dưỡng người mù mà thôi.
Ở cuối ấp là nhà anh Thạch Hơl. Gia đình anh Hơl có tới 4 người mù, gồm anh, mẹ anh - bà Danh El, cậu con cả Thạch Hiền, cô con gái Thạch Huê. Chỉ có mỗi cô con gái Thạch Val là lành lặn hai mắt.
Anh Hơl bị mù đã 24 năm nay. Dù mù lòa, sức khỏe yếu, nhưng hàng ngày vẫn phải lò dò ra biển lặn ngụp kiếm cá đổi cơm. Cô con gái Thạch Val đã lấy chồng mấy năm trước, nên mọi gánh nặng đổ lên vai vợ anh Hơl là chị Phi.
Ông Lâm Âu từng vạch mắt chị Phi và than trời: "Nếu không điều trị sớm, thì một ngày cái Phi cũng lại mù mất thôi. Tôi có kinh nghiệm xem mắt cả trăm người rồi, nên không chệch đi đâu được". Lời ông Âu khiến đại gia đình anh Hơl thêm hoang mang, lo lắng.
Mẹ già Danh El, anh Thạch Hơl và cô con gái mù lòa Thạch Huê
Hai chị em Kéo - Cải cùng mù lòa từ nhỏ
Cách nhà anh Thạch Hơl không xa là nhà 2 em Lâm Kéo và Lâm Cải. Chị Kim Ly sinh được hai cô con gái đẹp đẽ trong niềm vui khôn tả. Thế nhưng, niềm vui ấy chẳng được bao lâu, khi mắt của hai cô bé cứ mờ dần.
Hồi Kéo lên lớp 3, Cải vào lớp 1, hai chị em dắt nhau đến trường, nhưng cứ lao xuống rãnh. Hai chị em cắm mặt vào vở, mà con chữ cứ mờ tịt. Vợ chồng chị Ly đã dốc hết tài sản chạy chữa cho hai con, nhưng vô vọng. Giờ thì hai chị em đã mù hẳn. Tương lai của hai chị em Kéo - Cải chỉ là góc bếp, xó nhà.
Ngay trong cái ấp đìu hiu giữa những giồng cát trắng mênh mang ấy, còn có vô số những gia đình bất hạnh bởi chịu cảnh mù lòa. Vợ chồng bà Nghiếm chẳng biết làm gì, chỉ ra ngẩn vào ngơ, chờ con cháu mang cơm phục vụ. Thấy có khách lạ, ông bà vui lắm, vì tưởng có người tốt bụng mang gạo đến cứu đói.
Vợ chồng bà Nghiếm cùng chịu cảnh mù lòa
Ông bà đã mù cả chục năm nay, sức khỏe yếu, lại già cả, nên chẳng làm được việc gì. Đám con cháu trầy trật làm thuê làm mướn mà vẫn thiếu đói, nên chăm bẵm bố mẹ cũng không được đầy đủ.
Thấy có khách lạ, bà Thạch Kei lần dò sang hàng xóm. Nhìn khuôn mặt hong hóng ngước lên trời, tôi biết bà cũng bị mù. Không chỉ bà Kei, mà người con trai Thạch Cô của bà cũng mù tịt, cả ngày chỉ biết đi vào, đi ra. Mọi gánh nặng gia đình giờ đổ lên vai người con dâu của bà, tức vợ của anh Thạch Cô. Nhà nghèo, không được học hành, nên con cái anh cũng đều đi làm thuê làm mướn, kiếm miếng ăn đắp đổi qua ngày.
Hôm lang thang ở xóm, gặp toàn người mù này, tôi được nghe câu chuyện tình đẹp như cổ tích. Ấy là chuyện tình của cô Phượng. Phượng và chàng trai cùng ấp yêu nhau say đắm. Nhưng tình yêu của hai người gặp trở ngại lớn khi mắt Phượng cứ mờ dần, trắng dã như hòn bi ve, rồi mù hẳn.
Ông Lâm Âu khám mắt cho bà con
Gia đình nhà trai đã nhất mực chia rẽ đôi uyên ương. Thế nhưng, tình yêu của chàng không chết theo đôi mắt của Phượng. Chàng đã dựng túp lều tranh nhỏ xíu giữa đụn cát ngay ven biển. Hàng ngày, chàng dắt Phượng ra biển, rồi đôi uyên ương lặn ngụp dưới biển kiếm sống.
Theo ông Lâm Âu, chuyện mù lòa ở xã Lạc Hòa đã gây chấn động với các tổ chức xã hội từ cách nay hơn chục năm, khi ông công bố danh sách tới mấy trăm người mù. Nhờ sự sốt sắng của ông, của các tổ chức xã hội, mà đã có tới 300 người được cứu chữa kịp thời.
Đến nay, ông Lâm Âu cũng không nhớ nổi đã tổ chức bao nhiêu chuyến đưa bà con về TP. HCM để mổ mắt, điều trị đục thủy tinh thể. Hễ nghe tin có mổ mắt từ thiện là ông tìm cách liên hệ để giúp đồng bào của ông. Ông thực sự là vị cứu tinh của người dân trong xã, đặc biệt là ấp Đại Bái. Nếu không được cứu chữa kịp thời, thì số người bị mù ở xã ven biển này sẽ đến nửa ngàn người, một con số khủng khiếp không tưởng tượng nổi.
Đại Bái là nơi trồng hành nhiều nhất huyện Vĩnh Châu
Về chuyện nguyên nhân mù lòa, đến nay vẫn chưa có sự kết luận thực sự. Các bác sĩ thăm khám kết luận người dân ở đây bị mù vì những nguyên nhân như viêm kết mạc, đục thủy tinh thể, mây thịt, viêm loét giác mạc... Nhưng thứ gì gây ra những bệnh này thì chưa thực sự rõ ràng.
Là người theo dõi, tìm hiểu tình trạng mù lòa từ nhiều năm nay, ông Lâm Âu đưa ra nguyên nhân khiến bà con trong xã bị mù nhiều là do người dân sử dụng thuốc trừ sâu DDT tẩm ướp hành tím.
Không chỉ khu vực xã Lạc Hòa, mà Vĩnh Châu là huyện trồng hành tím rất nhiều. Ấp Đại Bái lại là nơi trồng nhiều hành nhất huyện. Người dân tẩm thuốc trừ sâu DDT để bảo quản hành, rồi treo hành lủng lẳng khắp nhà, cả trong giường ngủ. Phấn hành và thuốc bảo quản có thể là thủ phạm nguy hiểm nhất gây nên các bệnh về mắt.
Hành tím tẩm thuốc trừ sâu treo la liệt trong nhà là thủ phạm của tình trạng mù lòa ở Đại Bái?
Xác định thủ phạm nên chính quyền đã cấm người dân dùng thuốc DDT. Tuy nhiên, giờ đây, người dân lại sử dụng thuốc trừ sâu Mipcin. Cứ mỗi tấn hành, người dân dùng 2-4kg thuốc Mipcin để bảo quản.
"Nếu không có thuốc bảo quản, chỉ một tuần là hành thối hết. Tẩm thuốc bảo quản, chúng tôi để hành cả năm trong nhà mà không sao" - một người dân ở ấp Đại Bái cho biết.
Dù hậu quả của việc sử dụng thuốc trừ sâu tẩm ướp hành rất nghiêm trọng, song người dân Lạc Hòa, đặc biệt ấp Đại Bái vẫn sử dụng.
Theo xahoi
Lão thợ săn thiện xạ và cuộc đại chiến trăn dữ khổng lồ Là một cán bộ lão thành cách mạng, hàng chục năm sống ở núi Cấm với nhiệm vụ trinh sát địch, ông Ba Thành được xem là nhân chứng sống hiếm hoi còn lại tại vùng Thất Sơn từng nhiều lần giáp mặt với các loài mãnh thú khổng lồ. Vùng Bảy Núi (An Giang) xưa vốn được xem là chốn rừng thiêng...