Lật lại hồ sơ “nữ hoàng” Cẩm Nhung bị tạt axít
…Sự kiêu hãnh, tự tin quá mức của cô vũ nữ trẻ đẹp đã là nguyên nhân đẩy cô xuống tận cùng địa ngục…
Sài Gòn dưới thời Ngô Đình Diệm không thiếu những vụ đánh ghen, nhất là khi các tướng tá của chính quyền Ngô Đình Diệm được nới lỏng chuyện ăn chơi, đàng điếm. Thế nhưng, vụ vũ nữ Cẩm Nhung bị đánh ghen bằng axít là kinh khủng nhất, làm kinh hoàng cả Sài Gòn và niềm Nam hàng năm trời.
Chính bà Trần Lệ Xuân, rồi chồng bà là cố vấn Ngô Đình Nhu cũng phải vào cuộc với nỗ lực cứu cô vũ nữ nạn nhân và trừng trị những kẻ gây tội ác, nhưng tất cả đều không thành. Không biết vụ tạt axít này có góp phần làm cho chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ sau đó hơn ba tháng hay không.
Ảnh chụp tại một vũ trường của Sài Gòn trước năm 1975
Chấn động cả Sài Gòn
Ngày 18 tháng 7 năm 1961, đồng loạt các tờ báo, tạp chí ở Sài Gòn đăng tin, giật tít rất giật gân về việc “nữ hoàng vũ trường” – vũ nữ Cẩm Nhung bị tạt axít, phá hủy toàn bộ gương mặt xinh đẹp. Các tờ báo đều có chung nhận xét, đây là vụ đánh ghen bằng axít lần đầu tiên xảy ra trong giới thượng lưu Sài Gòn và trở thành tâm điểm quan tâm của mọi giới. Vũ nữ Cẩm Nhung người gốc Hà Nội, có một khuôn mặt cực đẹp và làn da trắng hồng của con gái xứ Bắc, đôi mắt lẳng lơ, cùng thân hình quyến rũ và đôi chân điệu nghệ nhất trong các vũ điệu cuồng say tại vũ trường Kim Sơn.
Sinh ra và lớn lên trên đất Thăng Long ngàn năm văn hiến, cô gái Hà thành từng có một thời niên thiếu êm đềm bên hồ Gươm, bên bờ sông Hồng, bên những dãy phố cổ của Hà Nội 36 phố phường. Khi vừa trở thành thiếu nữ, lúc đôi má của cô gái tuổi 15 đã biết ửng hồng khi gió mùa đông bắc tràn về, cô phải lưu luyến rời xa Hà Nội để theo gia đình di cư vào Nam.
Vào Sài Gòn được ít năm, khi cuộc sống vừa ổn định, cha của Cẩm Nhung đã qua đời vì bệnh, gia đình chỉ còn lại ba người phụ nữ: mẹ cô, bà vú Sọ và cô. Không có điều kiện đi học tiếp, Cẩm Nhung xin vào làm tiếp viên trong một nhà hàng. Từ một cô tiếp viên chuyên bưng bê món ăn, cô đã lân la làm quen với những bản nhạc, những điệu nhảy trong quán bar của nhà hàng. Để rồi khi chưa tới 19 tuổi, cô đã trở thành gái nhảy chuyên nghiệp trong giai đoạn phong trào nhảy đầm phát triển rầm rộ như nấm mọc sau mưa trên đất Sài Gòn.
Hàng trăm vũ trường đã đua nhau mọc lên trên khắp Sài Gòn, gái nhảy không đủ đáp ứng, vì vậy mà cô rất có giá, nhất là khi cô sở hữu khuôn mặt và vóc dáng “điểm 10″ cùng những bước nhảy uyển chuyển. Cẩm Nhung luôn làm say đắm khách làng chơi, do đó mà cô được các vũ trường săn đón như hàng độc, như của quý. Đi qua khắp các vũ trường, cuối cùng, Cẩm Nhung chọn gắn bó với vũ trường Kim Sơn, một mặt vì nó rất sang trọng, nhưng điều quan trọng hơn là vì ở đó, cô đã bị trúng “tiếng sét ái tình” của tay trung tá công binh Trần Ngọc Thức.
Cô gái 23 tuổi dù đã từng trải trong tình trường nhưng không hiểu sao lại bị tay trung tá công binh lớn hơn cả chục tuổi “hớp hồn” ngay những lần gặp đầu tiên. Có lẽ là vì sự già dặn, từng trải, phong lưu và cách tiêu tiền như nước của gã, mà cũng có thể vì cái lon trung tá thời ấy rất oai, cả Sài Gòn chỉ đếm được trên đầu ngón tay, mà cô vũ nữ sành điệu đã nhanh chóng sà vào vòng tay bao bọc của ông ta, dù cô thừa biết rằng ông ta đang có bà “vợ già”.
Trước đó, vũ nữ Cẩm Nhung cũng đừng được các đại gia bao bọc. Cùng với số tiền cát-sê cao ngất hàng đêm, cô gái trẻ đã sớm tạo dựng cho riêng mình cơ ngơi vững vàng. Cô có nhà ở trung tâm Sài Gòn, sống cùng mẹ và bà vú Sọ. Thế nhưng, sự kiêu hãnh, tự tin quá mức của cô vũ nữ trẻ đẹp đã là nguyên nhân đẩy cô xuống tận cùng địa ngục.
Trong lúc cô ngây ngất trong vòng tay của ông trung tá, bước dìu dặt trong những điệu nhảy ở vũ trường Kim Sơn thì ở khu gia binh Cô Bắc gần đó, có một người đàn bà đang âm thầm chuẩn bị một kế hoạch đánh ghen ghê rợn. Một can axít sunphuric đậm đặc đã được bà trung tá mua từ một cơ sở sản xuất bình ắc quy…
Theo một số tờ báo, dù chỉ mới 23 tuổi và mới vài ba năm Cẩm Nhung làm vũ nữ, nhưng đã có không biết bao nhiêu tướng tá, đại gia đất Sài thành từng đắm đuối, say mê, săn đuổi, lấy lòng người đẹp. Cẩm Nhung nổi lên trong giới vũ trường nhờ nhan sắc, những bước nhảy và cả phong cách “chịu chơi”, đồng thời cũng là người con gái trẻ đẹp sớm trở nên giàu có nhờ những nguồn thu nhập khác nhau. Nhưng trong số ấy, viên Trung tá Trần Ngọc Thức đã có gia đình, lại lọt vào mắt xanh của nữ hoàng vũ trường.
Thời ấy, “Thức công binh” (biệt danh của trung tá Trần Ngọc Thức) nổi lên như cồn trong giới ăn chơi ở Sài Gòn. Sài Gòn và cả miền Nam bắt đầu tiếp nhận viện trợ ồ ạt của Mỹ.
Các cơ sở hạ thầng phục vụ quân đội, phục vụ chiến tranh được chính quyền Diệm đầu tư tối đa, là mảnh đất màu mỡ để “Thức công binh” vớ bở, trở nên giàu có, thừa tiền của để bao gái. Vợ trung tá Trần Ngọc Thức có biệt danh là “Năm Ra-đô” – một biệt danh mà giới giang hồ khu Cô Bắc đặt cho, do bà chuyên buôn mặt hàng đồng hồ Ra-đô của Thụy Sĩ mới nhập càng vào Sài Gòn. Bà không lạ gì thói trăng hoa của chồng. Nhưng lần này, thấy “Thức công binh” mê cô vũ nữ trẻ đẹp, quên cả gia đình, còn không giấu giếm ý định cưới cô ta làm vợ bé, bà “Năm Ra-đô” đã ghen tuông đến nổi điên lên. Bà đã có rất nhiều lần hăm dọa, đánh ghen (theo kiểu truyền thống, nắm đầu, tát tai…) nhưng không làm sao khiến cho hai kẻ “già nhân ngãi, non vợ chồng” thôi nhau.
Theo thú nhận của Cẩm Nhung, sau khi sống chung với trung tá Thức được một thời gian, cô quyết định cắt hết những mối quan hệ tình ái phức tạp khác bởi nghĩ rằng mình có thể trở thành trung tá phu nhân. Việc ông “Thức công binh” đã có gia đình cũng là chuyện bình thường.
Cẩm Nhung chấp nhận làm vợ bé – điều không có gì là ghê gớm trong xã hội Sài Gòn thời đó. Cô không thể ngờ bà “Năm Ra-đô” đã vạch kế hoạch tỉ mỉ tiêu diệt tình địch. Hai tên giang hồ có cỡ được bà “Năm Ra-đô” thuê với giá 2 lượng vàng để làm cái việc hủy diệt nhan sắc của cô vũ nữ. Bà “Năm Ra-đô” tin tưởng, khi Cẩm Nhung không còn nhan sắc, cô sẽ không thể quyến rũ chồng bà và “Thức công binh” sẽ trở về với vợ con.
Video đang HOT
Buổi chiều trước khi vụ tạt axít xảy ra, bà vú Sọ của vũ nữ Cẩm Nhung vào phòng riêng báo cho cô biết, có một phụ nữ lạ mặt xuất hiện trước cổng nhà đòi gặp với giọng điệu rất hách dịch. Cẩm Nhung ra cửa, nhưng nại lý do người ở cầm chìa khóa đi chợ chưa về nên không mở được cửa.
Người đàn bà lạ mặt là “Năm Ra-đô” không nhịn được, đã lên tiếng chửi bới tục tĩu, hăm dọa sặc mùi đao búa giang hồ rồi hậm hực bỏ ra về. Vũ nữ Cẩm Nhung không phải lần đầu tiên gặp cảnh ngộ này nên cô rất chủ quan và đinh ninh rằng cũng như bao nhiêu lần khác, mọi chuyện rồi sẽ qua. Khoảng 22 giờ đêm, vũ nữ Cẩm Nhung rời khỏi nhà, định bước lên taxi, đến vũ trường. Hằng ngày, cô đều rời khỏi nhà vào giờ này, hoặc đi taxi, hoặc có xe của đại gia đón rước để cô đến vũ trường trên đường Tự Do (đường Đồng Khởi ngày nay) trước 23 giờ.
Cô thường trở về nhà lúc 4-5 giờ sáng, hoặc qua đêm với người tình ở một khách sạn nào đó, đến trưa hôm sau mới về nhà. Khi Cẩm Nhung còn cách chiếc taxi khoảng 10 mét, bất ngờ từ bên kia đường, một gã đàn ông chạy nhanh về phía cô. Cẩm Nhung chưa kịp phản ứng gì thì ca axít đã tạt mạnh vào mặt “nữ hoàng vũ trường”. Những người có mặt tại chỗ kể lại, họ chỉ nghe tiếng kêu cứu thất thanh “Chết tôi rồi, cứu tôi với” của nạn nhân, rồi cô ngã gục.
Trong khi đó, người đàn ông sau khi tạt axít đã băng qua bên kia đường, cùng một người đàn ông khác và một người đàn bà (chính là “Năm Ra-đô”) leo lên taxi mở cửa chờ sẵn rồi lao đi.
Khi Trần Lệ Xuân bốc đồng
Nghe tiếng kêu cứu, một số người đi đường đã chạy đến, họ thấy Cẩm Nhung nằm quằn quại dưới đường, mùi axít xông lên hôi nồng. Một người đàn ông đã ôm nạn nhân đưa lên xe taxi, chở đến bệnh viện Đô Thành (bệnh viện Sài Gòn ngày nay). Do bệnh viên Đô Thành không có khả năng chịu bỏng, nhất là bỏng axít, nạn nhân sau đó đã được chuyển đến bệnh viện Đồn Đất (bệnh viện Nhi Đồng ngày nay).
Những vũ nữ là bạn của Cẩm Nhung đến thăm, thấy cảnh sát hại dã man, đã hùn tiền lại mời luật sư bảo vệ cho Cẩm Nhung, đưa vụ việc ra pháp luật. Thế nhưng, thời ấy, thế lực của “Thức công binh” và bà “Năm Ra-đô” rất mạnh ở Sài Gòn, nên tưởng như không ai làm được gì họ. Một tuần lễ sau khi xảy ra vụ tạt axít, bà Trần Lệ Xuân (vợ của cố vấn Ngô Đình Nhu) đi công cán nước ngoài về tới Sài Gòn. Đọc báo thấy sự việc, bà Lệ Xuân tức giận, chỉ đạo Nha An ninh phải làm rõ vụ việc, xử thật nặng những kẻ gây tội ác. Tại bệnh viện Đồn Đất, ban đầu, nạn nhân Cẩm Nhung được cho nằm ở khu dành cho dân thường, ai vào thăm cũng được.
Mỗi ngày, luôn có hàng trăm người thân, bạn bè, những người hiếu kỳ tới thăm Cẩm Nhung. Có một người khách thăm đã kề tai Cẩm Nhung nói rất nhỏ, nói vừa đủ cho cô nghe: “Muốn yên thân thì hãy câm miệng, nếu cô làm lớn chuyện, “bả” sẽ giết chết cô. Trong những ngày ấy, bà vú Sọ là người suốt ngày đêm trực bên giường Cẩm Nhung. Tình cờ, bà vú Sọ phát hiện có kẻ lạ mặt rình rập cô Cẩm Nhung.
Để kiểm chứng bà giả vờ đi ra khỏi phòng bệnh để mua đồ, nhưng kỳ thực, bà nép mình ở góc hành lang để theo dõi. Kẻ lạ dã nhanh như sóc lách mình vào buồng bệnh nhân. Bà vú Sọ hốt hoảng chạy ngay trở lại phòng bệnh, vừa lúc bà thấy kẻ lạ giở tấm drap trắng đắp lên người Cẩm Nhung. Thấy bà trở vào phòng, kẻ lạ lúng túng nói là người quen tới thăm nạn nhân, sau đó lặng lẽ biến mất. Bà vú Sọ đã báo lên bệnh viện và thông báo với nhà chức trách.
Bà Trần Lệ Xuân nghe chuyện, đã chỉ đạo bệnh viện đưa Cẩm Nhung vào khu chăm sóc đặc biệt, không ai được vào thăm khi chưa có ý kiến của lãnh đạo bệnh viện. Mọi cuộc thăm viếng Cẩm Nhung sau đó đều có sự giám sát chặt chẽ của cảnh sát.
Với bản tính bốc đồng và tùy hứng, bà Lệ Xuân còn chỉ đạo cho ngừng hoạt động của tất cả các vũ trường, vì theo bà, đó là nguồn gốc của thói ăn chơi sa đọa, tan nát gia đình và tội ác. Bà còn cho kiểm tra tất cả các tướng tá Sài Gòn xem ai có vợ nhỏ phải xử lý kỷ luật.
Sài Gòn những ngày sau đó đìu hiu về đêm, khi mà hàng trăm vũ trường nhộn nhịp phải đóng cửa theo lệnh của bà cố vấn. Các tướng tá Sài Gòn thì bị một phen sốt vó, chạy lo đủ kiểu để không “lòi mặt chuột” có vợ nhỏ. Không chỉ các vũ trường mà các nhà hàng sang trọng ở Sài Gòn sau đó cũng chịu chung cảnh ế ẩm, khi mà phong trào ăn chơi của giới thượng lưu bất ngờ trở nên trầm lắng. Sau giờ làm việc, các đấng phu quân ở Sài Gòn chạy thẳng về nhà với vợ con, để cô vợ không nổi hứng tố cáo với bà cố vấn là chồng mình đã có vợ nhỏ.
Nếu như cú tạt axít làm Cẩm Nhung đau đớn thân xác, nhan sắc bị hủy hoại hoàn toàn, thì cú tạt axít này cũng làm người trong cuộc là “Thức công binh” đau đớn không kém. Không phải ông đau đớn vì cô vợ nhỏ bị nạn, mà là vì con đường công danh, sự nghiệp của ông ta bỗng chốc chấm hết, bao nhiêu bổng lộc trong ngành xây dựng công trình quân sự bỗng chốc mất trắng.
Chẳng những thế, ông còn bị miệng đời chê cười, mỉa mai. Với áp lực của vợ là Trần Lệ Xuân, ngài cố vấn Ngô Đình Nhu đã buộc trung tá Trần Ngọc Thức phải giải ngũ, trở về làm dân thường. Cũng với áp lức của bà Trần Lệ Xuân, cố vấn Ngô Đình Nhu đã yêu cầu sớm đưa vụ án ra xét xử. Một phiên tòa đã được mở sau khi vụ tạt axít xảy ra gần ba tháng. Bà “Năm Ra-đô” và tên du đăng trực tiếp tạt axít bị tuyên phạt mỗi người 20 năm tù, tên đồng bọn còn lại bị phạt 15 năm tù.
Thế nhưng, chỉ vài tuần sau, khi vụ án còn đang bị ở quá trình kháng cáo thì chế độ Ngô Đình Diệm đã bất ngờ sụp đổ với cái chết của hai anh em nhà họ Ngô, bà Lệ Xuân phải sống lưu vong. Chính trường Sài Gòn sau cái chết của anh em nhà họ Ngô đã bị khủng hoảng, vô chính phủ suốt mấy năm trời, không ai quan tâm đến vụ tạt axít cô vũ nữ Cẩm Nhung, vì vậy mà vụ án này tự nó bị “thối án”, về sau không thấy nền “Đệ nhị cộng hòa” của Nguyễn Văn Thiệu đưa ra xét xử.
Không bị xử tù, nhưng bà “Năm Ra-đô” đã mất hết quyền uy, giống như người chồng của mình. Theo báo chí Sài Gòn, sau đó, vợ chồng “Thức công binh” đã chia tay nhau mà nguyên nhân chính là vụ tạt axít của người vợ. Về sau, không ai còn biết “Thức công binh” ra sao, còn bà “Năm Ra-đô” thì gửi thân nơi cửa Phật, có lẽ bà muốn nhờ cửa Phật từ bi gột rửa tội lỗi khủng khiếp mà bà đã gây ra.
Trở lại tình trạng của cô vũ nữ bị tạt axít. Axít sunphuric đậm đặc đa gây phỏng độ 3 toàn bộ khuôn mặt của cô vũ nữ, đôi mắt của nạn nhân cũng bị phỏng rất nặng. Các bệnh viện ở Sài Gòn đều lắc đầu, bó tay. Họ chỉ có thể cứu được mạng sống của cô gái, còn đôi mắt, khuôn mặt thì trình độ của y học Sài Gòn lúc đó chỉ biết đứng nhìn. Bà Trần Lệ Xuân đã đích thân đến bệnh viện Đồn Đất thăm nạn nhân, trực tiếp nghe các bác sĩ trình bày tình trạng thương tật.
Đêm về, bà bàn với chồng là cố vấn Tổng thống Ngô Đình Nhu tìm cách giúp nạn nhân. Ngô Đình Nhu đã chỉ đạo cho đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa ở Nhật Bản đỡ đầu, giúp gửi cô Cẩm Nhung sang Nhật chữa vết thương. Một ngày cuối tháng 9 năm 1963, chiếc xe hồng thập tự của bệnh viện Đồn Đất đã trực chỉ hướng sân bay Tân Sơn Nhất và chạy thẳng ra tận chân cầu thang máy bay đang sắp cất cánh.
Hai người bác sĩ dìu Cẩm Nhung lên khoang đặc biệt của chuyến bay và tháp tùng cô sang tận Nhật Bản. Thế nhưng, nền y học của Nhật Bản cũng phải chịu thua, chấp nhận để dung nhan cô gái bị phá hủy hoàn toàn, vô phương cứu chữa. Hai tháng sau, Cẩm Nhung tự trở về nước, không có người đưa đón. Lúc đó, Sài Gòn đã đổi chủ, chế độ Ngô Đình Diệm vừa mới bị lật đổ. Bà Trần Lệ Xuân từng hứa “bao bọc trọn đời” cho nạn nhân Cẩm Nhung giờ đã sống lưu vong tận phương trời xa.
Đau khổ chồng chất đau khổ, Cẩm Nhung đã nhen nhóm ý định “trả thù đời” ngay khi một mình ngồi chuyến bay Tokyo – Sài Gòn không người đưa đón.
Một kiếp phù hoa
Đau khổ, buồn chán đến tuyệt vọng, vũ nữ Cẩm Nhung đã “trả thù đời” bằng cách đập phá, uống rượu, hút thuốc… Ngày trước, khi Cẩm Nhung còn ở trên đỉnh tham vọng, người đàn ông nào được dìu cô bước ra sàn nhảy nhã là diễm phúc lớn. Còn những kẻ được làm người tình của cô bao giờ cũng phải trải hàng núi tiền dưới chân cô. Bây giờ, để “trả thù đời”, Cẩm Nhung sẵn sàng ngã vào lòng bất cứ người đàn ông nào, không cần tiền bạc hay điều kiện gì.
Thế nhưng, với khuôn mặt cháy sém, những vết thẹo lồi lõm như ác quỷ, cặp mắt mờ đục lồi ra ngoài như mắt ếch, hiếm người đàn ông nào đủ can đảm làm tình nhân của cô. Chán chường, tức giận, Cẩm Nhung càng lặn ngụp trong rượu chè be bét. Người mẹ khốn khổ của Cẩm Nhung vì buồn phiền mà sinh bệnh, rồi qua đời cuối năm 1964, chỉ hơn một năm sau ngày đứa con gái bất hạnh của bà bị nạn. Càng thêm đau khổ, Cẩm Nhung càng lao sâu vào cuộc nghiện ngập cho quên đời.
Cô ngày một thiêu đốt hết gia sản kếch sù bao nhiêu năm vắt kiệt mồ hôi trong các vũ trường và cặp bồ với hàng tá nhân tình là sĩ quan cao cấp của nền Đệ nhất Cộng hòa và các đại gia. Bao nhiêu món đồ quý giá của cô cứ lần lượt ra đi, ban đầu là chiếc xe máy loại mới nhập cảng của Nhật Bản, sau đến các loại nữ trang, hột xoàn, vòng vàng…
Bà vú Sọ là người gần gũi, an ủi, khuyên can cô nhiều nhất, nhưng mọi lời an ủi, động viên đối với cô đều không còn giá trị. Cuối cùng, căn nhà trị giá gần 200 lượng vàng, Cẩm Nhung phải bán đi để có tiền đập phá. Cô và bà vú Sọ đến thuê nhà ở khu Cô Bắc, cách không xa nhà của vợ chồng bà “Năm Ra-đô”. Số tiền bán nhà rồi cũng cạn dần. Ngày cô không còn đủ tiền để trả tiền thuê nhà cũng là ngày bà vú Sọ trung thành đổ bệnh nặng, không tiền chạy chữa, nên đã qua đời.
Còn lại một mình trên đời, không nơi nương tựa, không người thân, không nhà cửa, không tài sản, cô vũ nữ lừng danh một thời chỉ còn con đường đi ăn xin.
Lần đầu tiên, người dân Sài Gòn thấy vũ nữ Cẩm Nhung đi ăn xin trước chợ Bến Thành vào khoảng trước Tết năm 1969. Cô ngồi bên vệ đường Lê lợi, khăn che kín mặt mày, trên ngực đeo bức ảnh cô chụp chung với trung tá Trần Ngọc Thức, trước mặt là vỏ lon hộp sữa Ghi-gô cô chìa ra xin lòng thương hại của người đi đường.
Người Sài Gòn nghe tin đã kéo tới xem Cẩm Nhung đi ăn xin, đông đúc như đi xem cải lương. Ngoài tấm hình đeo trên ngực, người ta còn nhận ra Cẩm Nhung ở đôi bàn tay mịn màng, không chút tì vết và đôi bàn chân gót son thon thả. Ban đầu, người Sài Gòn cho tiền cô thật nhiều. Có tiền, Cẩm Nhung tiếp tục nghiện ngập.
Càng về sau, người Sài Gòn càng bớt cảm động về chuyện ăn xin của cô vũ nữ nên càng ít cho tiền. Người dân Sài Gòn khu vực quận 1 lúc đó đã không khỏi bùi ngùi khi thấy Cẩm Nhung mù lòa cầm gậy dò đường trên đại lộ Lê Lợi, con đường Tự Do, trên những lối đi một thời in dấu chân cô vũ nữ Cẩm Nhung từ nhà tới vũ trường Kim Sơn. Sau đó, Cẩm Nhung phải rời khỏi khu vực chợ Bến Thành, lần mò đến chợ Bình Tây, chợ Bà Chiểu, và cuối cùng là ngã tư Trần Quốc Thảo – Lý Chính Thắng (quận3), trước khi cô âm thầm rời Sài Gòn hoa lệ để về miền Tây xa xôi ăn xin trên bến phà Mỹ Thuận.
Hình ảnh của Cẩm Nhung một thời được đem ví với chuyện “hồng nhan bạc phận”, cho một kiếp phù hoa sáng nở, tối tàn. Một kiếp người ngắn ngủi trôi qua nhưng có rất nhiều điều đáng để con người ta suy ngẫm, quá khứ vang bóng đã tạm gác lại cùng sự nuối tiếc một thời vừa kiêu hãnh mà cũng không kém truân chuyên. Trên ngực bà không còn bức chân dung với người tình sĩ quan năm xưa nữa. Sau nhiều năm bôn ba khắp các tỉnh miền Tây Nam bộ, cuối cùng, bà đã ẩn mình sống quãng thời gian cuối đời nơi vùng đất tâm linh cuối trời Nam, dưới mái chùa Tam Bảo.
Những năm tháng Cẩm Nhung lang thang trên khắp nẻo Sài Gòn sau khi bị nạn, cũng là lúc trên sân khấu ca nhạc của Sài Gòn thịnh hành bài hát “Bài ca cho người kỹ nữ” của hai tác giả Nhật Ngân – Duy Trung. Không biết các tác giả viết bài hát này để tặng cho ai khác hay vì xót thương số phận của Cẩm Nhung mà lời bài hát như nói về cuộc đời của cô vữ nữ bất hạnh này. Người ta kể rằng, mỗi khi đang đi ăn xin trên đường, tình cờ nghe bài hát “Bài ca cho người kỹ nữ” vang lên, Cẩm Nhung luôn ôm mặt khóc, đứng tựa vào đâu đó thật lâu rồi mới dò gậy đi ăn xin tiếp.
Bài hát có đoạn:
“…Ta tiếc cho em trong cuộc đời làm người
Ta xót xa thay em là một cánh hoa rơi
Loài người vô tình giẫm nát thân em
Loài người vô tình giày xéo thân em
Loài người vô tình giết chết đời em…”
Theo Giáo Dục VN
Thâm nhập thế giới đêm Đà thành (kỳ cuối): Quá dễ để lách luật "múa cột" trước mắt cơ quan chức năng?
Hoạt động múa cột trong Nghị định không nói cấm mà cũng chẳng nói cho phép. Nếu xử lý thì cũng chỉ xử lý ở mức độ ăn mặc không đúng thuần phong mỹ tục.
Nếu dùng khái niệm vũ trường thì tại Đà Nẵng hiện chỉ còn duy nhất New Phương Đông. Nghĩa là chỉ trên một vài tiêu chí cơ bản về quy mô, chứ thực tình nếu đem soi với những quy định khắt khe thì toàn thành phố không có một vũ trường nào. Nhưng na ná vũ trường thì rất nhiều. Chính cái na ná này đã khiến cơ quan chức năng không có chế tài để xử lý các vi phạm.
Thử lấy một vài điều kiện để kinh doanh vũ trường theo Nghị định của Chính phủ như: diện tích sàn tối thiểu phải 80m2, người dưới 18 tuổi không được vào, nằm tách biệt với khu dân cư, cách âm tốt... thì không có một tụ điểm ăn chơi nào mà nhiều người vẫn gọi là "vũ trường" đạt tiêu chuẩn. Chính vì những ràng buộc ngặt nghèo xuất phát từ chủ trương "không cấm nhưng không khuyến khích" này mà những người đầu tư đã dùng một khái niệm rất vô chừng là "bar". Từ này ở nước ngoài đã phổ biến, nhưng ở Việt Nam thì nó chưa có định nghĩa cụ thể, chưa trở thành đối tượng điều chỉnh của luật, chưa nằm trong diện quản lý của các ngành liên quan. Và đây là kẽ hở để sinh ra nhiều biến tướng, vì núp dưới vỏ bọc của "bar", nhiều nơi có đủ các trò của một vũ trường nhưng nộp thuế ít hơn, đầu tư ít hơn mà chế tài cũng không khắt khe, nếu không nói là bỏ trống.
Múa cột đã phổ biến tại các quán bar, vũ trường trong khi không có chế tài xử lý. Ảnh: C.K
Ông Lưu Văn Học - Phó Chánh thanh tra Sở VH-TT&DL TP Đà Nẵng cho biết, những tụ điểm mà họ tự nhận là bar ấy do Sở KH&ĐT cấp giấy phép đăng ký kinh doanh. Sở VH-TT&DL có một chức năng rất nhỏ trong này là cấp phép biểu diễn các chương trình nghệ thuật, kiểm tra danh mục các bài hát biểu diễn. Chế tài để xử lý các vi phạm bên lĩnh vực văn hóa đối với các tụ điểm này cũng còn gặp rất nhiều lúng túng. Cũng theo đại diện thanh tra Sở thì hoạt động múa cột trong Nghị định cũng không nói cấm mà cũng chẳng nói cho phép. Nếu xử lý thì Sở cũng chỉ xử lý ở mức độ ăn mặc không đúng thuần phong mỹ tục.
Trong số các tụ điểm ăn chơi ở Đà Nẵng, ông Học cho hay F.T.V là điểm đã bị cơ quan liên ngành xử phạt nhiều lần vì hoạt động quá giờ cho phép và nhắc nhở về cách ăn mặc của nhân viên múa cột. Còn S.V.T. thì từng bị xử phạt vì nhiều thành viên của ban nhạc người nước ngoài (Philippines) xin nhập cảnh vào TPHCM nhưng lại biểu diễn ở Đà Nẵng trong khi Visa đã quá hạn.
Ngoài ra, cách đây mấy tháng, tụ điểm Sao MTV cũng bị xử lý vì tiếng ồn quá mức cho phép, người dân sống xung quanh làm đơn kiến nghị liên tục. Theo quy định, nếu không phải là vũ trường thì không được tổ chức khiêu vũ, vậy nhưng quy định này đã bị xé rào ở một số tụ điểm ăn chơi có tiếng. Còn hành vi múa lửa của những người pha chế rượu, theo ngành Văn hóa thì rõ ràng là có nguy cơ cháy nổ rất nguy hiểm, nhưng nếu kiểm tra và xử lý thì chắc chắn lại thuộc về CSPCCC.
Các quán bar đã xé rào với màn múa lửa của nhân viên pha chế rượu. Ảnh: C.K
Còn theo ông Trần Văn Thôi - chuyên viên Phòng Nghiệp vụ văn hóa (Sở VH-TT&DL) thì hình thức hoạt động của các bar và vũ trường ở Đà Nẵng gần như giống nhau, nhưng bar lại không có chế tài xử lý trong khi vũ trường thì có quy định rất rõ. Các bar thì đăng ký kinh doanh tại Sở KH&ĐT nhưng gần như các mã ngành đều thuộc diện kinh doanh không điều kiện nên khó mà có cơ sở để kiểm tra, xử lý.
Hỏi về việc các nhân viên múa cột thường ăn mặc rất hở hang, sử dụng nhiều động tác kích động, kích dục, ông Thôi cũng thẳng thắn trao đổi: "Đây rõ ràng không phải là hoạt động khiêu vũ cũng chẳng phải một vở kịch múa nào. Nhưng trong tất cả các văn bản liên quan cũng không có văn bản nào nói đến múa cột cả. Vì thế cũng chẳng có căn cứ nào mà xử lý".
Qua trao đổi với các đơn vị chức năng, các ý kiến đều cho rằng, nếu có chế tài cụ thể thì việc xử lý các sai phạm của những tụ điểm ăn chơi mà gần đây nhiều người gọi là bar thực sự không khó. Nhưng, nếu không có quy định cho loại hình này, không có căn cứ xử lý thì sẽ rất rối. Hành vi biến tướng lập lờ với rất nhiều hoạt động không được cho phép mấu chốt bắt nguồn từ những quy định ngặt nghèo về điều kiện kinh doanh vũ trường của Chính phủ cũng như lách thuế của các nhà kinh doanh. Theo thông tin mà chúng tôi có được thì ngành Văn hóa đang tham mưu cho UBND TP Đà Nẵng ra những quy định để quản lý, xử lý chặt chẽ các tụ điểm ăn chơi biến tướng này.
Các cơ quan quản lý nhìn nhận rằng, ở một thành phố lớn như Đà Nẵng, xuất hiện các quán bar, vũ trường cũng là một nhu cầu tất yếu về mặt tinh thần. Nếu hoạt động theo quy định, trong khuôn khổ pháp luật cho phép thì đây sẽ là nơi phục vụ nhu cầu của người dân địa phương, khách du lịch các nơi lưu trú tại Đà Nẵng và cả người nước ngoài nữa.
Theo chúng tôi, ở khía cạnh tích cực thì điều này đúng. Tuy vậy, hình thức kinh doanh này bao giờ cũng có mặt trái, và xử lý được điều này thì không phải là đơn giản. Đi liền với vũ trường, với bar là việc sử dụng ma túy, là mại dâm cao cấp, là giang hồ, bảo kê, ô nhiễm tiếng ồn cùng nhiều hành vi vi phạm pháp luật và các tệ nạn xã hội khác nữa. Ta không thể cấm người khác đi chơi ở vũ trường, ở quán bar, nhưng nếu làm tốt công tác quản lý thì sẽ biết được họ đến đó để chơi gì. Loạt phóng sự của chúng tôi sau chuyến xâm nhập các vũ trường, quán bar cũng chỉ mong nói lên điều đó.
Theo ANTD
Thâm nhập thế giới đêm Đà thành (7): Sa đoạ những cuộc vui thâu đêm ở vũ trường, quán bar Trong cuộc vui bất tận thâu đêm suốt sáng ở quán bar, vũ trường, các vũ nữ chịu khá nhiều áp lực. Trong môi trường đầy rẫy cám dỗ, không ít trường hợp sa ngã, khi tỉnh ngộ, nhìn lại mình thì đã quá muộn... Mỗi khi có khách vào, đội ngũ này sẽ sà tới và thăm dò nhu cầu. Ảnh: C.K...