Lãi suất tín dụng đen 700%/năm
Theo đại diện Cục Cảnh sát hình sự, các khoản cho vay có lãi suất quá 20%/năm đều được coi là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, lãi suất tín dụng đen hiện nay thường lên tới 300-700%.
Chia sẻ tại Hội nghị Tuyên truyền mở rộng tín dụng ngân hàng, đấu tranh với hoạt động tín dụng đen diễn ra sáng nay (17/10), Trung tá Ngô Hồng Vương, Đội trưởng Phòng Trọng án, Cục Cảnh sát hình sự cho biết quy định tại Bộ luật Dân sự hiện nay, mức lãi suất cho vay tối đa với các khoản vay dân sự chỉ là 20%/năm (trừ trường quy định hợp pháp luật liên quan quy định khác).
Trường hợp cho vay với lãi suất vượt quá 5 lần so với trần lãi suất cho phép của Bộ luật Dân sự (tương ứng 100%/năm), thu lời bất chính từ 30 triệu đồng trở lên đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
“Các khoản vay có lãi suất vượt quá 20%/năm đều được coi là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, tùy theo mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hay hình sự”, ông Vương nói.
Theo vị lãnh đạo Cục Cảnh sát hình sự, thực tế hiện nay, mức lãi suất của hoạt động tín dụng đen cao hơn rất nhiều so với trần lãi suất cho vay dân sự cho phép. Trong đó, mức lãi suất phổ biến trong khoảng 300-500%/năm, thậm chí, một số trường hợp bị phát hiện cho vay với lãi suất lên tới 700%/năm.
Bên cạnh mức lãi suất 700%, các đối tượng cho vay tín dụng đen thường gắn với hành vi đòi nợ kiểu khủng bố, chiếm đoạt tài sản trái pháp luật.
Các khoản cho vay với lãi suất quá 20%/năm (trừ trường quy định hợp pháp luật liên quan quy định khác) đều vi phạm pháp luật. Ảnh: Quang Thắng.
Video đang HOT
Trung tá Ngô Hồng Vương cho biết thêm hoạt động tín dụng đen và thu hồi nợ của loại hình cho vay này là nguồn phát sinh 10 tội danh trong Bộ luật Hình sự như bắt giữ người trái pháp luật để đòi nợ, cố ý gây thương tích, hủy hoại tài sản, gọi điện khủng bố tinh thần, đe dọa…
Ngoài ra, hoạt động tín dụng đen thường gắn với tội phạm có tổ chức. Để siết nợ, các chủ nợ thường thuê nhóm đối tượng xăm trổ, có tiền án tiền sự hoặc các công ty đòi nợ theo kiểu “ xã hội đen”.
Nhiều công ty hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ bên ngoài hoạt động hợp pháp, nhưng chỉ số ít nhân viên có hợp đồng đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định, còn lại đa số là nhân viên không chính thức, không ký hợp đồng hoặc liên kết, thuê, đứng đằng sau là các băng nhóm tội phạm có tổ chức.
Các đối tượng này được tư vấn pháp luật, dùng các biện pháp đòi nợ phản cảm, nhằm làm nhục, mất uy tín, gây phiền nhiễu, ảnh hưởng đến kinh tế của con nợ nhưng không đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc rất khó để xử lý hình sự. Trong khi đó, các mức xử lý hành chính hiện nay không đủ sức răn đe.
Cũng tại hội nghị, Phó thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết để góp phần đẩy lùi tín dụng đen với nhiều hệ lụy, ngành ngân hàng sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp để đẩy mạnh tín dụng có hiệu quả phục vụ sản xuất kinh doanh, nhu cầu đời sống, tiêu dùng chính đáng của người dân.
Trong đó, NHNN chỉ đạo các ngân hàng tập trung nguồn vốn, đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay của người dân, doanh nghiệp; đơn giản quy trình, thủ tục vay vốn; ưu đãi lãi suất… hỗ trợ khôi phục nền kinh tế sau giai đoạn Covid-19.
Bên cạnh đó, NHNN cũng sẽ tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các tổ chức tín dụng, đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả, kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm liên quan đến tín dụng đen.
Theo báo cáo của NHNN, tính đến 30/9, tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đạt 8,69 triệu tỷ đồng, tăng 6,09% so với cuối năm 2019 (cùng kỳ năm 2019 tăng 9,4%).
Trong đó, tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên có mức tăng trưởng khá, đến cuối tháng 9, dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn (nơi dễ phát sinh hoạt động tín dụng đen) ước đạt 2,12 triệu tỷ với 14,17 triệu khách hàng còn dư nợ, chiếm 24,67% tổng dư nợ nền kinh tế, và tăng 5% so với cuối năm trước.
Các TCTD cũng đẩy mạnh cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, cho vay tiêu dùng, với dư nợ đến cuối tháng 8 ước đạt 1,71 triệu tỷ, tăng 2,37% và chiếm 19,98% dư nợ nền kinh tế.
Hạ lãi suất: Giúp giảm áp lực trả nợ
Từ đầu năm đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã 3 lần giảm lãi suất điều hành, với mức giảm khoảng 1,5-2%/năm. Động thái này được kỳ vọng sẽ tạo nguồn vốn rẻ cho các ngân hàng thương mại, giúp tăng dòng chảy tín dụng, từ đó lan tỏa tích cực đến tình hình kinh tế.
Lãi suất tiền gửi tại nhiều ngân hàng đã giảm. Ảnh: ST
"Khơi" dòng vốn
Theo NHNN, từ năm 2016 đến nay đã điều chỉnh giảm 2-2,5%/năm các mức lãi suất điều hành, giảm 0,8-1,5%/năm trần lãi suất huy động các kỳ hạn dưới 6 tháng, giảm 2,5%/năm trần lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên.
Đặc biệt, dưới tác động của đại dịch Covid-19, chỉ riêng năm 2020, NHNN đã 3 lần điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất điều hành với quy mô cắt giảm tương đối mạnh. Nhờ đó, so với các nước trong khu vực, mức giảm lãi suất điều hành của Việt Nam hiện là một trong các mức giảm mạnh nhất. Cụ thể là Trung Quốc giảm 0,3%, Malaysia giảm 1,25%, Thái Lan giảm 0,75%, Indonesia giảm 1%, Ấn Độ giảm 1,15%...
NHNN cho rằng, cùng với các giải pháp đồng bộ để hỗ trợ nền kinh tế, việc giảm mạnh các mức lãi suất điều hành của NHNN góp phần tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ phục hồi kinh tế. Theo Phó Thống đốc thường trực NHNN Đào Minh Tú, vấn đề hỗ trợ thông qua hạ lãi suất, kể cả việc cho vay mới hay các khoản vay cũ, đều tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Vì thế, việc hạ lãi suất là giải pháp cơ bản, quan trọng cho tín dụng mở rộng.
Trên thực tế, làn sóng giảm lãi suất huy động tại các ngân hàng thương mại đã diễn ra mạnh kể từ đầu tháng 9 đến nay, kéo theo lãi suất cho vay cũng giảm cùng hàng loạt gói tín dụng ưu đãi hỗ trợ doanh nghiệp, người dân. Bên cạnh đó, NHNN cũng quyết định hoãn siết tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn thêm 1 năm để các ngân hàng không bị chịu áp lực cơ cấu lại nguồn vốn, trong bối cảnh các ngân hàng thương mại đã phải hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn về mặt thanh khoản, thông qua việc giảm lãi suất cho vay, giãn nợ và cơ cấu lại nợ. Đây có thể nói là những động thái hết sức cần thiết khi nhiều ý kiến cho rằng Chính phủ và các cơ quan quản lý cần những chính sách, giải pháp khác quyết liệt hơn để hỗ trợ nền kinh tế. Bởi trên thế giới, nhiều nước đã ban hành các giải pháp rất mạnh, nới lỏng chính sách tiền tệ để tăng dòng vốn, cứu nền kinh tế trong bối cảnh đại dịch.
Giúp giảm áp lực trả nợ
Mặc dù thị trường đón nhận khá tích cực trước các quyết định hạ lãi suất của NHNN, nhưng tác động thực tế đến toàn bộ nền kinh tế lại không quá lớn như kỳ vọng. Bộ phận phân tích - Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) cho rằng, quyết định giảm lãi suất điều hành của NHNN phần nhiều phản ánh nỗ lực đồng hành, hỗ trợ nền kinh tế của NHNN nhằm thúc đẩy tăng trưởng GDP trong quý cuối năm. Bởi hiện nay, đối với trần lãi suất tiền gửi dưới 6 tháng, lãi suất huy động thực tế của các ngân hàng thương mại trên thị trường tại các kỳ hạn này hiện cũng đều dưới 4%/năm, tức dưới mức trần mới mà NHNN ban hành.
Hơn nữa, theo phân tích của các chuyên gia Công ty Chứng khoán KB (KBSV), lãi suất huy động ở mức thấp và trong xu hướng giảm xuất phát từ hai nguyên nhân. Thứ nhất là thanh khoản hệ thống duy trì ở trạng thái dư thừa khi nguồn cung dồi dào, trong khi phía cầu chưa có nhiều tín hiệu khởi sắc (tín dụng đến 30/9/2020 mới tăng 6,09% so với cuối năm 2019, cùng kỳ năm trước tăng 9,4% - NHNN). Thứ hai, áp lực giảm lãi suất huy động để duy trì tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) phù hợp trong bối cảnh các ngân hàng phải cắt giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng trong dịch Covid-19.
Có thể thấy, lãi suất trên thị trường giảm đến từ quyết định của NHNN không nhiều. Chưa kể, quyết định giảm lãi suất đến lần thứ 3 trong năm của NHNN không phải quá bất ngờ, mà phù hợp với xu hướng cắt giảm lãi suất điều hành của nhiều ngân hàng trung ương các nước trên thế giới trước những lo ngại rủi ro kinh tế toàn cầu suy giảm. Đánh giá thêm về vấn đề này, ông Phạm Thế Anh, Trưởng bộ môn Kinh tế Vĩ mô, trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, sự mở rộng tiền tệ chủ yếu chỉ giúp tạo niềm tin, giảm nghĩa vụ nợ và ổn định tài chính, ít có khả năng khôi phục cầu nội địa. Lãi suất không phải là rào cản của việc vay vốn, nên động thái hạ lãi suất dù không giúp tăng trưởng tín dụng nhưng giúp giảm áp lực trả nợ rất nhiều, nếu Việt Nam kiểm soát tốt lạm phát trong thời gian tới thì dư địa hạ lãi suất sẽ còn rất nhiều.
Theo các chuyên gia, xét về tổng thể, các chính sách tiền tệ nhằm đối phó với dịch Covid-19 của NHNN chủ yếu sử dụng nguồn lực từ các ngân hàng thương mại, do vậy mức tác động đến cung tiền là không quá lớn so với các công cụ bơm tiền trực tiếp thông qua việc mua trái phiếu của các ngân hàng trung ương khác. Do đó, chuyên gia tài chính - ngân hàng TS. Cấn Văn Lực cho rằng, lãi suất tại Việt Nam phải ở mức trung bình cao so với quốc tế và khu vực do thuế giá trị gia tăng (VAT) của Việt Nam cao, rủi ro doanh nghiệp cao xếp hạng tín nhiệm BB - hạng đầu cơ, thì lãi suất 5-7% là hợp lý. Hơn nữa, lãi suất đầu vào phải duy trì hấp dẫn để thu hút nguồn vốn cho hệ thống ngân hàng. Vì thế, việc hỗ trợ nền kinh tế thông qua lãi suất cần có sự chọn lọc, hơn nữa, chính sách tài khóa có hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn sự suy giảm của nền kinh tế, nên cần đẩy mạnh hơn các giải pháp về giải ngân đầu tư công... sẽ giúp kích thích chi tiêu, kích cầu đầu tư...
Gần 224.000 doanh nghiệp, hộ kinh doanh được hỗ trợ sau dịch COVID-19 Các ngân hàng TP.HCM miễn giảm lãi cho 17.758 khách hàng với dư nợ đạt 48.771 tỷ đồng và cho vay mới lũy kế từ ngày 23/1/2020 cho 43.487 khách hàng với doanh số đạt 190.003 tỷ đồng. Các ngân hàng hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19. (Ảnh minh họa: Trần Việt/TTXVN) Gần 224.000 doanh nghiệp,...