Lãi suất cho vay khó giảm vì nợ xấu
Việc phấn đấu giảm lãi suất cho vay những tháng cuối năm có nhiều yếu tố thuận lợi, song sẽ gặp thách thức do tiến trình xử lý nợ xấu diễn ra còn chậm.
Việc phấn đấu giảm lãi suất cho vay những tháng cuối năm có nhiều yếu tố thuận lợi, song sẽ gặp thách thức do tiến trình xử lý nợ xấu diễn ra còn chậm.
Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia (NFSC) đã cho biết như vậy khi đánh giá về thị trường tiền tệ – ngân hàng trong Báo cáo tình hình kinh tế tháng 8 và 8 tháng đầu năm vừa được công bố mới đây.
Theo NFSC, “hệ thống tài chính trong 8 tháng đầu năm nhìn chung đã đảm bảo tốt khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế do thanh khoản của khu vực ngân hàng khá dồi dào”. Tính đến 31/7/2016, tổng nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế đạt 7 triệu 489 nghìn tỷ đồng, tăng 12,5% so với cuối năm 2015. Trong đó, vốn cung ứng của khu vực ngân hàng chiếm 74,9%, tăng 9,1% so với đầu năm, còn lại thị trường vốn (gồm cổ phiếu và trái phiếu) đóng góp xấp xỉ 25,1% tổng cung ứng vốn, tăng 24,3% so với đầu năm.
Tính đến cuối tháng 8/2016, tổng phương tiện thanh toán M2 tăng 10,5% so với đầu năm 2015. Vốn huy động từ hệ thống các TCTD tăng khoảng 11% so với đầu năm, song tín dụng chỉ tăng ở mức tương đương so với cùng kỳ năm trước (9,2%). Tuy nhiên, “tín dụng các khu vực ưu tiên tăng trưởng thấp hơn mức chung của toàn hệ thống cho thấy khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế chưa cao” báo cáo của NFSC cho biết.
Về diễn biến thanh khoản, NFSC cho biết, thanh khoản trên thị trường trong tháng 8 tiếp tục dồi dào. Điều đó thế hiện ở mấy điểm sau. Thứ nhất, mặt bằng lãi suất liên ngân hàng giảm khoảng 0,3-0,5 điểm % ở tất cả các kỳ hạn so với tháng trước và duy trì ở mức thấp, trong khi khối lượng giao dịch bình quân giảm 24% so với tháng trước.
Video đang HOT
Thứ hai, NHNN tiếp tục mua USD trên thị trường và đồng thời mở rộng phát hành tín phiếu kỳ hạn ngắn (14 ngày). Trong tháng 8, các TCTD đã hấp thụ hết lượng tín phiếu kỳ ngắn hạn do NHNN phát hành với mức lãi suất rất thấp trong khoảng từ 0,7% đến 1,2%/năm, thấp hơn lãi suất LNH kỳ hạn 2 tuần (1,28%/năm) càng cho thấy thanh khoản NH khá dư thừa. Theo thống kê tính đến 22/8/2016, NHNN đã hút ròng hơn 128.000 tỷ đồng qua thị trường OMO.
Thanh khoản trên thị trường 1 cũng tiếp tục ổn định, lãi suất huy động và cho vay ở mức thấp.
Theo NFSC, việc phấn đấu giảm lãi suất cho vay những tháng cuối năm có nhiều yếu tố thuận lợi, như: thanh khoản liên ngân hàng dồi dào; tỷ lệ tín dụng/huy động là 84,6%, giảm so với mức 85,7% cuối năm 2015; áp lực tăng lãi suất do yếu tố tỷ giá được giảm thiểu do thị trường ngoại hối ổn định; lãi suất TPCP tiếp tục giảm ở các kỳ hạn, cùng với việc TPCP đã đạt hơn 89% kế hoạch năm sẽ giảm áp lực lên lãi suất ngân hàng.
Tuy nhiên, “việc giảm lãi suất cho vay còn gặp một số thách thức do tiến trình xử lý nợ xấu diễn ra còn chậm”. Nợ xấu tính đến tháng 6/2016 toàn hệ thống là 2,78%, tăng 0,23 điểm % so với cuối năm 2015. Số nợ xấu được xử lý trong 6 tháng đầu năm là 59,7 nghìn tỷ đồng (giảm 14,55% so cùng kỳ năm trước), chủ yếu là nhờ khách hàng trả nợ gần 31 nghìn tỷ đồng, số nợ xấu bán cho VAMC đạt 8,88 nghìn tỷ đồng.
Theo báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm 2016 của các ngân hàng cho thấy nợ xấu tiếp tục tăng và việc xử lý nợ xấu còn khá chậm, chủ yếu bán nợ cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), đây vốn dĩ chỉ là giải pháp “nhốt nợ” lại một nơi để làm đẹp tỷ lệ nợ trên sổ sách, trong khi tiến độ xử lý của VAMC cũng chẳng mấy khả quan.
Vì vậy, vốn huy động của các ngân hàng đang mắc kẹt tại nợ xấu và phần trái phiếu đặc biệt của VAMC, vốn là những khoản mục không còn mang lại thu nhập. Những ngân hàng nào có lượng nợ xấu càng cao thì việc giảm lãi suất cho vay càng khó khả thi, vì để bù lại cho phần thu nhập bị mất khi vốn bị kẹt ở các khoản nợ xấu.
Theo Diên đan doanh nghiêp
Lãi suất: Không cứ "ép" là được!
Lãi suất là biến số thị trường nên không thể ấn định một con số duy ý chí. Kéo lãi suất cho vay về 5% là điệp vụ bất khả thi, nhiều chuyên gia nhận định.
Ảnh minh họa.
Bơm và hút
Theo số liệu phân tích của Trung tâm Nghiên cứu của MaritimeBank, đến ngày 23/8, trên thị trường liên NH, lãi suất VND đã có 6 phiên giảm liên tiếp ở kỳ hạn qua đêm và 1 tuần. Lãi suất cả hai kỳ hạn này ở mức rất thấp, chỉ 0,74% và 0,82%/năm. Lãi suất liên NH giảm mạnh là chỉ báo cho thấy thanh khoản hệ thống NH đang khá dư dả. Chính vì vậy, NHNN cũng liên tiếp phát hành tín phiếu để hút tiền về.
Mỗi phiên NHNN phát hành trung bình 8.000 tỷ đồng kỳ hạn 14 ngày. Riêng phiên ngày 23/8, NHNN đã nâng lượng phát hành tín phiếu lên 10.000 tỷ đồng nhưng giữ nguyên kỳ hạn. Cũng như các phiên từ tháng 5/2016 đến nay, hầu hết số lượng tín phiếu được NHNN phát hành đều được các NHTM hấp thụ hết.
Tại buổi họp báo mới đây, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng chia sẻ: Với vai trò là người điều tiết thanh khoản hệ thống, NHNN đã theo dõi sát diễn biến thị trường đưa tiền ra cũng như hút tiền vào hàng ngày đảm bảo thanh khoản dư thừa ở mức hợp lý giúp duy trì lãi suất ổn định, đồng thời ngăn chặn các NH không quay ra huy động trên thị trường 1 có thể đẩy lãi suất tăng lên. Vì vậy, mặc dù trong 7 tháng đầu năm lãi suất chịu nhiều sức ép nhưng NHNN xác định phải giữ ổn định mặt bằng lãi suất huy động.
Do lượng tín phiếu phát hành nhiều và với quy mô các phiên sau lớn hơn, nên lãi suất tín phiếu cũng đã giảm sâu xuống chỉ còn 0,59%/năm giúp chi phí điều tiết vốn trong hệ thống trở nên dễ chịu hơn. Tuy nhiên một thành viên Hội đồng tư vấn tài chính tiền tệ quốc gia băn khoăn với việc NHNN tăng số lượng phát hành tín phiếu. Vị này đồng tình với mặt tích cực của việc phát hành tín phiếu giúp NHNN nhanh chóng trung hòa lượng tiền trong lưu thông, hỗ trợ giảm lãi suất, nhưng mặt trái của nó là Nhà nước sẽ chịu phí tổn. Điều quan trọng hơn là nếu lạm dụng sử dụng tín phiếu làm hạn chế quá trình phát triển thị trường trái phiếu theo đúng nghĩa.
"Thời điểm này NHNN không có nhiều lựa chọn để thực hiện. Nếu muốn làm được điều này thì phải hội tụ được 3 điều kiện đó là chính sách tiền tệ tự chủ, linh hoạt, hiệu lực hơn; kỷ luật nghiêm minh của ngân sách và cuối cùng phải phát triển thị trường trái phiếu", vị này nhấn mạnh.
Có ép được không?
Quay trở lại với câu chuyện lãi suất, trước nay lãi suất luôn được coi là biến số của thị trường và được xác lập dựa trên quan hệ cung - cầu thị trường. Vậy nên sau khi Bộ Kế hoạch & Đầu tư công bố Dự thảo Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 với nhiều mục tiêu liên quan đến ngành NH trong đó có "nhắc" tới mục tiêu kéo lãi suất cho vay xuống mức trung bình của các nước đang phát triển là khoảng 5%/năm lại vấp phải sự phản ứng từ thị trường.
"Lãi suất là biến số thị trường nên không thể ấn định một con số duy ý chí như vậy được", một vị chuyên gia bức xúc nói và ông cũng thắc mắc không biết cơ sở nào để Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra con số 5%. Nếu dựa vào kỳ vọng lạm phát thì ngay trong nội dung Dự thảo này thấy sự mâu thuẫn. Trong mục tiêu cụ thể của nội dung đầu tiên là ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô có đề cập đến duy trì ổn định lạm phát và neo kỳ vọng lạm phát ở mức 5%/năm. Như vậy, có thể hiểu đến năm 2020 lạm phát mục tiêu sẽ ở mức 5%/năm. Mà lãi suất huy động NH lại "ngóng" theo lạm phát. Nếu muốn đảm bảo thực dương lãi suất cho người gửi tiền thì con số lãi suất có thể phải cao hơn. Ở góc độ này cho thấy mục tiêu kéo lãi suất cho vay về mức 5% như các nước đang phát triển tại Dự thảo trên là bất khả thi.
Chưa kể Việt Nam đang mong muốn đến năm 2018 được công nhận nền kinh tế thị trường đầy đủ, không thể có chuyện áp đặt biện pháp hành chính cụ thể trần lãi suất cho vay. Thay vì lãi suất, vị chuyên gia cho rằng nên điều hành kinh tế nên theo lạm phát mục tiêu. Đây là cách điều hành tương đối hiện đại, và phù hợp với xu thế hiện nay khi Việt Nam hội nhập sâu rộng. "Nhất là lại muốn NHTW hiện đại, độc lập hơn, thì điều hành theo lạm phát mục tiêu rất phù hợp và hoàn toàn khả thi khi thực hiện", TS Lực khẳng định lại quan điểm.
Theo TS Vũ Đình Ánh, khó phân xử khách hàng hay NH đúng. Khách hàng kêu cao, còn NH lại bảo cho vay lãi suất thấp. Theo tôi cứ nhìn vào con số tăng trưởng tín dụng trên thị trường thì thấy rõ nhất lãi suất có phù hợp hay không. Nếu lãi suất cao quá thì DN khó vay vốn và tín dụng không thể tăng được."Nhưng thực tế, tín dụng tăng trưởng đều từ đầu năm đến nay cho thấy lãi suất đang phù hợp thì DN mới vay được nhiều như vậy chứ", ông Ánh kết luận.
Theo NTD
Khả năng giảm lãi suất tiền đồng: Đừng kỳ vọng quá nhiều! Dù có nhiều yếu tố hỗ trợ, khả năng giảm của lãi suất cho vay tiền đồng đang gặp phải nhiều áp lực từ rủi ro tỷ giá hiện hữu trở lại và lạm phát vẫn cao hơn đáng kể so với năm 2015. Lãi suất cho vay được nhiều ngân hàng điều chỉnh giảm trong thời gian gần đây. Sự dư thừa...