Lạc vào đảo rồng tại Indonesia
Từ châu Âu đến châu Á, rồng là một trong những huyền thoại phổ biến nhất, tượng trưng cho quyền lực, sức mạnh, điềm lành hay thậm chí cả cái ác.
Tuy nhiên, đối với người dân bản địa ở đảo Komodo, Indonesia, rồng lại là sinh vật thực sự tồn tại.
Rồng Komodo có nguồn gốc từ Australia. Ảnh: Sergey Uryadnikov
Nằm trên khu vực Công viên Quốc gia Komodo ở phía nam Indonesia, 3 hòn đảo núi lửa bao gồm Komodo, Rinca và Padar cùng một số hòn đảo nhỏ khác hiện là ngôi nhà duy nhất trên toàn thế giới của rồng Komodo kể từ khi chúng di cư khỏi Australia khoảng 4 triệu năm trước.
Dù được đặt tên là rồng, sinh vật này trên thực tế không thực sự là rồng như những gì thường hay được miêu tả trong truyền thuyết hay phim ảnh mà là một loài thằn lằn khổng lồ.
Tên gọi phổ biến của chúng bắt nguồn từ tin đồn về một sinh vật giống rồng xuất hiện ở khu vực quanh đảo Komodo trong khi màu vàng cùng cấu tạo lưỡi chẻ đôi khiến người ta liên tưởng đến việc rồng phun lửa. Trước khi được phát hiện và gọi bằng cái tên phổ biến của mình, rồng Komodo vẫn luôn được người dân địa phương gọi là “ora”, có nghĩa là “cá sấu đất”.
Mang tên khoa học Varanus komodoensis, rồng Komodo là loài thằn lằn lớn nhất trên thế giới hiện tại với chiều dài tối đa lên tới 3m và nặng tới 136kg. Do sở hữu kích thước lớn, rồng Komodo cần rất nhiều năng lượng và có thể ăn tới 80% trọng lượng cơ thể của mình trong một bữa. Số năng lượng này sẽ được sử dụng để cung cấp cho cơ thể to lớn cũng như giúp chúng chạy với vận tốc ngang với tốc độ của một con người – vào khoảng 19 km/h.
Rồng Komodo cũng rất nguy hiểm do sở hữu tuyến nọc độc ở hàm dưới có khả năng làm giảm huyết áp, gây chảy máu ồ ạt và ngăn ngừa đông máu. Đặc biệt, nọc của loài rồng này đủ mạnh để khiến con người tử vong. Khi tấn công, chúng sẽ sử dụng răng cưa để cắn sau đó kéo con mồi bằng các cơ ở phần cổ, gây ra vết thương hở lớn. Nọc độc lúc này có tác dụng làm mất máu nhanh hơn và khiến con mồi bị sốc.
Rồng Komodo có thể dài tới 3m và nặng tới 136kg. Ảnh: Dreamstime
Sự tồn tại của loài bò sát khổng lồ này mới chỉ được phát hiện vào năm 1912 bởi các nhà khoa học phương Tây. Cụ thể, dữ kiện lịch sử cho biết vào năm 1910, Trung úy Jacques Karel Henri Van Steyn Van Hensbroek thuộc chính quyền thuộc địa Hà Lan, người lúc đó đang đóng quân trên đảo Flores ở miền đông Indonesia, đã nhận được tin tức về một sinh vật giống cá sấu có kích thước lớn bất thường sống trên đảo Komodo gần đó.
Video đang HOT
Với sự tò mò, ông đã đích thân lên đường điều tra và trở lại cùng các hình ảnh cũng như mẫu da của sinh vật này. Ông gửi các dữ liệu trên tới Pieter Ouwens, người sau đó là giám đốc của Bảo tàng Động vật học và Vườn Bách thảo Java ở Buitenzorg (nay là Bogor).
Ông Owens nhận thấy đây không phải cá sấu mà là một loài thằn lằn chưa được biết đến trước đây và bắt đầu xuất bản các nghiên cứu đầu tiên về sinh vật này khoảng 2 năm sau đó. Tới năm 1969, các nghiên cứu dài hạn đầu tiên về rồng Komodo được công bố sau khi ông Walter Auffenberg – một chuyên gia tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Florida – chuyển tới đảo Komodo sinh sống cùng gia đình mình.
Tuy nhiên, điều thu hút nhất ở rồng Komodo có lẽ là ý nghĩa của chúng trong quá trình tiến hóa. Rồng Komodo có ngoại hình không giống như bất kỳ loài săn mồi đỉnh cao nào thuộc các hệ sinh thái trên thế giới hiện nay và các nhà khoa học cho rằng nguyên nhân chúng có thể sống sót khỏi việc bị tuyệt chủng là nhờ sự kết hợp các yếu tố may mắn giữa môi trường sống của đảo Komodo cũng như tập tính.
Môi trường sống trên đảo Komodo tương đối khô hạn và nhìn chung không thích hợp cho con người sinh sống. Trong khi đó, các loài bò sát như rồng Komodo có thể sinh sống được ở môi trường này và thậm chí có thể thay đổi chế độ ăn để đáp ứng nhu cầu. Những yếu tố này giúp rồng Komodo có thể phát triển trên đảo trong sự cô lập và không bị ảnh hưởng trong khoảng thời gian dài.
Ngoài ra, việc sinh vật này có khả năng sinh sản đơn tính khi không có con đực ở gần cùng khả năng bơi qua lại giữa các hòn đảo lân cận khác giúp chúng tăng cường sự đa dạng di truyền và duy trì quần thể ở các hòn đảo nhỏ hơn.
Tuy nhiên trong những năm trở lại đây, số lượng rồng Komodo đang ngày một suy giảm và thậm chí bị liệt vào sách đỏ có nguy cơ tuyệt chủng của Liên minh Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (IUCN). Mực nước biển dâng cao, kết hợp với nạn săn bắn trái phép cũng như sự suy giảm môi trường sống do đô thị hóa và nông nghiệp có thể sẽ khiến môi trường sống của rồng Komodo bị thu hẹp ít nhất 30% trong 45 năm tới.
Rồng Komodo là loài thằn lằn lớn nhất trên thế giới hiện nay. Ảnh: Vulkanisator/Fotolia
Hai loài rồng nguy cấp, còn tồn tại trên thế giới
Rồng Komodo Varanus komodoensis được cộng đồng quốc tế công nhận, bảo vệ rất sớm, chính thức thuộc Phụ lục I CITES từ ngày 1/7/1975.
Rồng đất Varanus komodoensis được Việt Nam và Liên minh châu Âu cùng đề xuất thành công với 75% đồng thuận tại Hội nghị các quốc gia thành viên CITES năm 2022 và chính thức thuộc Phụ lục CITES từ ngày 23/2/2023.
Rồng Komodo: Báu vật của Indonesia
Rồng Komodo (tên khoa học là Varanus komodoensis) là loài động vật đặc hữu và vô cùng nguy cấp, quý, hiếm. Đây là loài bò sát chỉ có phân bố ở Indonesia (cụ thể là trên 4 đảo: Komodo, Rinca, Flores và Padar) và chúng cũng độc chiếm các vùng mà chúng xuất hiện.
Rồng Komodo là loài sống thọ nhất trong các loài bò sát với tuổi đời tối đa đạt 50 năm (cá thể hoang dã). Đây cũng là loài thằn lằn lớn nhất (165kg) và dài nhất (3m). Rồng Komodo thích sống ở những nơi nóng, khô, và thường sống ở vùng đồng cỏ khô, thảo nguyên và rừng nhiệt đới ở độ cao thấp. Nó hoạt động mạnh nhất vào ban ngày. Tốc độ của chúng có thể đạt đến 20km/h, lặn sâu tới 4.5m và trèo cây một cách thành thạo.
Rồng Komodo là loại động vât vô cùng nguy cấp, quý, hiếm.
Rồng Komodo cũng là loài có giác quan rất tốt: nhìn xa lên tới 300m, khứu giác phát hiện thức ăn và đầu lưỡi phát hiện mùi hương chính. Rồng Komodo là loài săn mồi hàng đầu trong môi trường sống của nó và là một trong những loài động vật lớn nhất hiện diện trong khu vực. Nó cũng là loài ăn xác thối, ăn những động vật mới chết và loại bỏ chúng khỏi cảnh quan.
Chế độ ăn của rồng Komodo trưởng thành bình thường chủ yếu bao gồm xác thối, nhưng chúng có thể tấn công và ăn nhiều loại con mồi lớn, bao gồm dê, lợn, hươu, lợn rừng, ngựa, trâu nước và rồng Komodo nhỏ hơn. Rồng Komodo săn con mồi lớn hơn bằng cách phục kích chúng và cắn. Sau đó, chúng đi theo con vật bị thương cho đến khi mất máu hoặc nhiễm trùng.
Nước bọt của rồng Komodo rất nhiều vi khuẩn nên nhanh chóng gây nhiễm trùng cho con mồi. Nước bọt của chúng chứa hơn 50 chủng vi khuẩn khác nhau có thể khiến con mồi tử vong do nhiễm trùng ngay cả khi chỉ bị cắn.
Loài thằn lằn này thường tìm kiếm thức ăn, nhưng cũng có thể chạy nhanh và săn mồi lén lút và mạnh mẽ, đập con mồi xuống đất và xé nát nó bằng móng vuốt và răng.
Con non ăn châu chấu, bọ cánh cứng, tắc kè nhỏ, trứng, chim và cuối cùng là động vật có vú nhỏ. Rồng Komodo có thể nuốt những miếng thức ăn lớn bằng cách mở rộng cổ họng và hộp sọ linh hoạt của nó. Chúng ăn hầu hết con mồi, để lại rất ít chất thải.
Rồng Komodo trưởng thành đứng đầu chuỗi thức ăn và không có kẻ săn mồi nào. Con non thường trở thành con mồi của con trưởng thành, động vật có vú lớn hơn và chim. Chúng tránh bị săn mồi bằng cách sống trên cây cho đến khi chúng trở nên lớn hơn.
Rồng Komodo có số lượng còn rất ít trong tự nhiên và thuộc Phụ lục I CITES - Nghiêm cấm buôn bán quốc tế vì mục đích thương mại. Loài đang bị đe dọa tuyệt chủng do con mồi của chúng ngày càng suy giảm, môi trường sống bị thu hẹp và nạn săn bắt bất hợp pháp gia tăng.
Rồng đất: Loài rồng có bề ngoài bắt mắt
Rồng đất (tên khoa học Physignathus cocincinus) là loài thằn lằn có phân bố rộng từ Nam Trung Hoa đến Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar và Thái Lan.
Ở Việt Nam, loài rồng đất sống hoang dã trong tự nhiên, phân bố ở nhiều tỉnh từ Hà Giang, Cao Bằng, Yên Bái, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Phú Thọ, Hòa Bình, Bắc Giang, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc (Tam Đảo); Hà Tây cũ (Ba Vì), Ninh Bình (Cúc Phương), Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.
Rồng đất sống dọc theo các suối đá dưới tán rừng thường xanh hỗn giao với cây rụng lá theo mùa và rừng tre nứa từ độ cao 43 đến 820m trên mực nước biển. Chúng sống lưỡng cư và trên cây dọc các suối nước ngọt. Rồng đất sống, kiếm ăn ban ngày với tập tính ít vận động, di chuyển hẹp, trung bình 4.7- 6.1 m/ ngày. Vào ban đêm, rồng đất thường nghỉ trên các cành cây trên mặt nước.
Trong mùa hoạt động, rồng đất được ghi nhận có hoạt động mạnh mẽ nhất trong khoảng thời gian từ 10 đến 13 giờ tại Việt Nam. Khi bị tác động, rồng đất thể hiện tập tính trốn chạy bằng việc nhảy xuống nước hoặc chạy rất nhanh, chạy bằng 2 chân vào trong bụi cây.
Rồng đất có bề ngoài khá bắt mắt.
Loài này có khả năng bơi rất tốt. Rồng đất là động vật ăn tạp, với thức ăn chủ yếu là động vật không xương sống, nhưng có cả cá và thú nhỏ, chim, bò sát, hoặc một số bộ phận nhỏ thực vật. Trong môi trường nuôi sinh sản, rồng đất ăn chuột, tim bò, cá, thức ăn chó mèo và thực vật các loại quả ngọt.
Rồng đất có màu cơ thể từ xanh đến xám nâu, dùng để ngụy trang trong sinh cảnh sống tự nhiên. Vảy hàm dưới và vùng má có mầu trắng, xanh, hoặc đỏ đến cam. Con đực đôi khi có mầu vàng, cam đến trắng vùng nách, hàm và ngực.
Phần thân và đuôi dẹp theo chiều ngang, rồng đất có chi khỏe, để thích hợp với tập tính leo trèo. Hình dạng mõm có thể khác nhau tùy thuộc khu vực phân bố. Cá thể trưởng thành có mào liên tục từ cổ đến sống lưng và tách biệt với mào phần đuổi trước. Mào phát triển cùng với sự ra tăng tuổi và rõ ràng hơn ở con đực. Đuôi có các dải sẫm mầu dọc đuôi.
Con non, phần toàn thân có một số sọc ngang màu sáng cùng với hai bên sườn, mờ dần theo tuổi. Từ sau mắt đến lỗ tai có một dải dọc sẫm màu.
Ở cá thể trưởng thành, có sự phân biệt giới tính rõ rệt. Con đực có phần dầu lớn và má phồng. Hình dáng bên ngoài của con cái nhỏ hơn so với con đực khá rõ.
Chiều dài thân của rồng đất đạt tối đa 0,9m. Phần thân và đuôi dẹp theo chiều ngang, rồng đất có chi khỏe, để thích hợp với tập tính leo trèo. Rồng đất, đặc biệt là cá thể đực có đặc tính bảo vệ lãnh thổ và khá hung dữ trong môi trường nuôi sinh sản. Tuổi thọ cao nhất của rồng đất chỉ đạt 15 năm.
Rồng đất đã được đưa vào Phụ lục II CITES - Hạn chế buôn bán quốc tế vì mục đích thương mại. Số lượng cá thể rồng đất trong tự nhiên ở Việt Nam còn không nhiều và rất cần được bảo tồn, bảo vệ hữu hiệu.
Tất tần tật về các loại 'rồng thật' trên Trái đất Mặc dù, rồng là sinh vật thần thoại duy nhất trong 12 con giáp. Nhưng trong thực tế vẫn có một số loài động vật có những đặc điểm rất giống rồng. Một loài "rồng nhỏ" mới Vào tháng 1 năm nay, một loài thằn lằn kangaroo phương bắc (Agasthyagama) mới được phát hiện ở vùng núi Western Ghats phía nam Ấn Độ....