Kỳ vọng vốn ngoại tích cực vào cuối năm
Sự thay đổi chính sách của Mỹ đã tác động đến thị trường chứng khoán toàn cầu, gián tiếp ảnh hưởng đến giao dịch của dòng vốn ngoại tại các thị trường cận biên, mới nổi, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, thị trường vẫn đang kỳ vọng sẽ có sự chuyển biến tích cực từ khối ngoại trong một vài tháng tới, đặc biệt là vào cuối năm 2018.
Sau diễn biến khá tích cực trong tháng 8, bước sang tháng 9, chỉ số VN-Index đã đảo chiều, thanh khoản có phần sụt giảm. Thực tế, rất khó để thị trường chứng khoán có thể tăng trưởng bền vững nếu không có sự đột biến về dòng tiền.
Báo cáo chiến lược tháng 9 của Công ty Chứng khoán (CTCK) Rồng Việt cho thấy, riêng trong tháng 8, các nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng hơn 1.400 tỷ đồng trên cả hai sàn, giảm đáng kể so với mức bán ròng tới 2.400 tỷ đồng trong tháng 7.
Điều này giúp hạ áp lực bán ra trên thị trường, tạo điều kiện cho VN-Index hồi phục 3,5% trong tháng.
Trong đó, nhiều cổ phiếu lớn đã chuyển từ bán ròng sang mua ròng, đặc biệt là các cổ phiếu hàng tiêu dùng như MSN (286 tỷ đồng), VJC (237 tỷ đồng) và HPG (206 tỷ đồng).
Mặt khác, các quỹ ETF nội vẫn thu hút một lượng khá tốt dòng vốn ngoại. Chẳng hạn, chứng chỉ quỹ VFMVN30 được khối ngoại mua ròng 102 tỷ đồng trong tháng 7 và 220 tỷ đồng trong tháng 8.
Hiện tại, theo Rồng Việt, dòng vốn ngoại đang tỏ ra thận trọng khi nền kinh tế thế giới còn nhiều yếu tố bất ổn, nhất là những động thái khó lường trước của Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Vốn ngoại có lẽ cần thêm thời gian để thực sự trở lại các thị trường cận biên và mới nổi, nhất là khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) lên kế hoạch tăng lãi suất trong tháng 9.
Nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì sự ổn định thông qua chính sách bảo vệ tỷ giá ở mức vừa phải. Và điều quan trọng nhất là thị trường trong nước còn ở dạng tiềm năng, với nhiều cơ hội cho các đợt IPO và thoái vốn doanh nghiệp nhà nước lớn
Trong phiên giao dịch ngày 7/9, khối ngoại mua ròng hơn 45,6 tỷ đồng trên HOSE và bán ròng hơn 18,2 tỷ đồng trên HNX. Lực mua ròng của khối ngoại ở VNM cũng là một nhân tố hỗ trợ cho thị trường.
Về mặt tích cực, CTCK này kỳ vọng nhà đầu tư nước ngoài sẽ mạnh dạn rót vốn hơn trong một vài tháng tới, điều vẫn thường diễn ra vào thời điểm cuối năm và đầu năm.
Theo đó, sau khi mua thỏa thuận VHM trong đợt IPO, khối ngoại đã liên tục bán ròng cổ phiếu này (cùng với VIC và VRE), nên không loại trừ khả năng một phần tiền đang chờ đợi thời điểm thích hợp để trở lại.
Video đang HOT
Dù vậy, các biến chuyển vĩ mô trên thế giới vẫn sẽ là nhân tố chính quyết định xu hướng trong 12 tháng tiếp theo, nên nhà đầu tư cần lựa chọn đúng thị trường cho mục tiêu quý IV.
Nếu tính về khối lượng, khối ngoại đã bán ròng tổng cộng hơn 5.000 tỷ đồng trong 2 tháng (tháng 7 và tháng 8). Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ chi tiết các giao dịch bán ra của khối ngoại, ông Nguyễn Hồng Khanh, Trưởng phòng phân tích CTCK Quốc Tế Việt Nam (VIS) cho rằng, đây đơn thuần là hoạt động cơ cấu các khoản mục đầu tư sau khi đã mua vào.
“Trước biến động của đồng USD và xu hướng chuyển dịch dòng vốn ra khỏi các thị trường mới nổi, Việt Nam có chịu ảnh hưởng nhưng mức độ không quá căng thẳng. Nguyên nhân là nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì sự ổn định thông qua chính sách bảo vệ tỷ giá ở mức vừa phải. Và điều quan trọng nhất là thị trường trong nước còn ở dạng tiềm năng, với nhiều cơ hội cho các đợt IPO và thoái vốn doanh nghiệp nhà nước lớn”, ông Khanh nói.
Hiện tại, hoạt động thoái vốn các doanh nghiệp nhà nước đang có phần chậm lại, thay vào đó tiến trình thúc đẩy xử lý nợ xấu và tăng vốn ngân hàng được tập trung đẩy nhanh tiến độ.
Theo ông Khanh, từ nay đến cuối năm, dòng vốn nước ngoài có thể đổ sang các ngân hàng bởi các ngân hàng thương mại đang rất cần tăng vốn cấp 1 nhằm đáp ứng điều kiện Basel II đang cận kề.
Ngoài ra, một lượng vốn đáng kể cũng đang chảy vào bất động sản thông qua các hoạt động góp vốn, nắm giữ cổ phần, nhất là khi nhiều doanh nghiệp bất động sản lớn năm nay đã niêm yết như Vinhomes, Văn Phú Invest, Đạt Phương, Cenland… và chuẩn bị đón thêm nhiều tên tuổi khác.
Tuy vậy, thị trường vẫn phải chờ đợi nội dung chi tiết cuộc họp tháng 9 của Fed để đoán biết những lần tăng lãi suất tiếp theo. Theo nhiều CTCK, dòng tiền ngoại trong trung và dài hạn nhiều khả năng sẽ có chuyển biến tích cực, nhất là giai đoạn cuối năm, tập trung vào các cổ phiếu đầu ngành có yếu tố hỗ trợ.
Xu thế bán ròng của khối ngoại sẽ giảm dần do thị trường đang ở mức định giá hợp lý
Nhà đầu tư ngoại đang liên tiếp bán ròng trong 4 tháng vừa qua, bắt đầu từ giữa tháng 4 (không tính đến giao dịch thỏa thuận của VHM), với giá trị bán ròng lũy kế đến cuối tháng 8/2018 đạt gần 12.000 tỷ đồng. Đây là giai đoạn bán ròng dài nhất trong vòng 3 năm qua. Xu hướng này dự báo còn tiếp diễn, khi những phiên giao dịch đầu tháng 9, các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục bán ròng.
Tôi cho rằng, đây là hoạt động bình thường bởi khi thị trường đang ở mức cao và có lợi nhuận, nhà đầu tư sẽ hiện thực hóa lợi nhuận, đồng thời tìm kiếm cơ hội đầu tư khác hoặc tìm đến những tài sản ít rủi ro hơn.
Hiện tại, những yếu tố bất ổn trên thị trường tiền tệ thế giới, đặc biệt tại các nước mới nổi như Argentina, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Indonesia là những rủi ro chính tác động mạnh đến thị trường chứng khoán, trong đó có Việt Nam. Ngoài ra, tỷ giá USD/VND sẽ theo xu hướng leo dốc vào những tháng cuối năm, do đó, tôi cho rằng, trong ngắn hạn, các nhà đầu tư ngoại sẽ hạn chế việc giải ngân vào thị trường chứng khoán Việt.
Ngược lại, xu thế bán ròng của khối ngoại cũng sẽ giảm dần do thị trường đang ở mức định giá hợp lý và một khi những yếu tố rủi ro về khủng hoảng tiền tệ giảm dần hoặc ổn định trở lại, hy vọng khối nhà đầu tư này sẽ kết thúc bán ròng, thay đổi qua trạng thái mua ròng vào các tháng cuối năm 2018.
Ông Võ Văn Cường, Giám đốc Nghiên cứu, CTCK KB Việt Nam (KBVS)
Việt Nam đủ sức níu chân dòng vốn đầu tư
Việc khối ngoại bán ròng trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong những tháng gần đây nằm trong xu hướng chung với các thị trường chứng khoán khu vực như Thái Lan, Indonesia hay Philippines. Tuy nhiên, nếu tính trong 8 tháng đầu năm, khối ngoại vẫn mua ròng tới hơn 32.400 tỷ đồng (khoảng 1,4 tỷ USD) tại Việt Nam, trong khi bán ròng tại Thái Lan và Philippines. Điều này cho thấy, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn có những nét hấp dẫn riêng qua sự phát triển mạnh mẽ về quy mô, độ mở trong những năm gần đây, cũng như triển vọng nâng hạng thị trường trong những năm tới.
Tôi cho rằng, với triển vọng sáng sủa của nền kinh tế và thị trường chứng khoán Việt Nam tầm nhìn 2020, Việt Nam sẽ đủ sức níu chân và thu hút thêm dòng vốn đầu tư trung và dài hạn. Đối với dòng vốn ngắn hạn, nguồn tiền sẽ chảy vào thông qua các kênh ETF hay P-Notes, đặc trưng là thiếu tính ổn định và nhạy cảm với những diễn biến kinh tế toàn cầu. Tôi dự đoán, dù Fed có tăng lãi suất và những căng thẳng từ cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung có diễn ra, đà bán ròng của khối ngoại trên thị trường chứng khoán vẫn có xu hướng giảm dần trong những tháng cuối năm.
Ông Vũ Minh Đức, Trưởng phòng Cao cấp, Phòng Nghiên cứu và Phân tích, CTCK Bản Việt (VCSC)
Hoàng Anh
Theo Trí Thức Trẻ
Vốn ngoại đổ vào bất động sản thực chất hơn
FDI rót vào bất động sản trong những năm gần đây chủ yếu nhắm đến các dự án thực tế được cam kết triển khai hơn là nắm giữ để thu hút các đối tác đầu tư...
Trong 10 năm qua, bất chấp những giai đoạn thăng trầm của thị trường bất động sản Việt Nam, dòng vốn đầu tư trực tỉếp nước ngoài (FDI) đổ vào lĩnh vực này vẫn luôn trong xu hướng ổn định và tăng trưởng, tính đến hết tháng 7/2018 đạt gần 59 tỷ USD. Đồng thời dòng vốn FDI cũng ngày càng thực chất hơn.
Nhận định về điều này, bà Khanh Nguyễn, Giám đốc bộ phận Thị trường vốn tại Việt Nam, Jones Lang Lasalles phân tích: nhìn lại thời kỳ trước, như năm 2007, lượng đầu tư nước ngoài cao gấp 3 lần năm 2005 nhưng dòng vốn này chưa bao giờ được giải ngân đầy đủ.
Đến năm 2008, Việt Nam đón nhận lượng vốn FDI kỷ lục với 72 tỷ USD, tăng gần gấp 4 lần so với năm 2007, phần lớn cũng không được triển khai vào các dự án, lượng giải ngân chỉ cao hơn 10% so với năm 2005.
Nhưng trong 3 năm 2015-2017, lượng vốn FDI vào Việt Nam không ngừng tăng và đa số được triển khai vào các dự án. Do đó, FDI rót vào bất động sản trong những năm gần đây cũng chủ yếu nhắm đến các dự án thực tế được cam kết triển khai hơn là nắm giữ để thu hút các đối tác đầu tư.
Không chỉ là nguồn vốn từ châu Á
Nguồn vốn FDI đổ vào bất động sản vẫn chủ yếu đến từ các nhà đầu tư châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc. Hongkong, Đài Loan (Trung Quốc). Tuy nhiên, với nhu cầu mở rộng đầu tư tại Việt Nam, các doanh nghiệp châu Âu thời gian gần đây cũng đang gia tăng nhu cầu đầu tư trực tiếp vào bất động sản thương mại thông qua việc sở hữu các tòa nhà làm trụ sở văn phòng hoặc phòng trưng bày, triển lãm tại các khu vực ngoài trung tâm.
Nhà đầu tư Mỹ cũng đang rất năng động khi quan tâm nhiều hơn đến lĩnh vực bất động sản tại Việt Nam. Điển hình là quỹ đầu tư tư nhân Warburg Pincus có trụ sở tại New York, đã cam kết rót hơn 1 tỷ USD vào Việt Nam. Phần lớn dòng vốn này đã được phân bổ đầu tư vào các danh mục bất động sản bao gồm thương mại, khách sạn và công nghiệp.
Riêng trong lĩnh vực nhà ở, nếu năm 2007, dòng vốn FDI chỉ tập trung ở phân khúc cao cấp với những tên tuổi quen thuộc như Keppel Land, Capitaland với các dự án bất động sản đầu tiên tại Việt Nam là The Estella hoặc The Vista.
Đã từng xuất hiện hiện tượng người mua nhà phải xếp hàng dài để tranh nhau những suất mua khan hiếm của những sản phẩm này do tình trạng đầu cơ ảo. Trong thời điểm đó, tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của các dự án bất động sản có nguồn vốn FDI thường ở mức 30% - 35%. Từ đó, dẫn đến tình trạng vốn FDI đăng ký đầu tư bất động sản, chủ yếu đến từ các quốc gia khu vực châu Á cao kỷ lục trong năm 2008, lên đến 23 tỷ USD, chiếm hơn 30% tổng vốn FDI đăng ký.
Vào khoảng tháng 3/2008, trước áp lực tăng trưởng quá nóng của thị trường và sự ảnh hưởng của suy thoái kinh tế tài chính toàn cầu, các công cụ tài chính tiền tệ dường như không thể kiểm soát nổi khi sự gia tăng liên tục không ngừng của lãi suất cho vay, có lúc lên đến 25%, và lạm phát đỉnh điểm ở mức 23%, thị trường bất động sản rơi vào chu kỳ suy thoái.
Dòng vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực này cũng giảm và chỉ bắt đầu hồi phục từ cuối năm 2013, đầu năm 2014. Cũng từ đây, thị trường bắt đầu trở nên quen thuộc với những tên tuổi của những chủ đầu tư FDI khác và các dự án bất động sản thương mại ngoài phân khúc nhà ở như các tòa nhà văn phòng hạng A/hoặc B hàng đầu ở Hà Nội và Tp. HCM như Pacific Place, Central Building, Tòa nhà 63 Lý Thái Tổ, M Plaza, Mê Linh Point Tower hay Lotte, Aeon...
Xu hướng mở rộng các phân khúc bình dân
Bên cạnh đó, cùng với sự phục hồi của thị trường, có thể thấy, hàng loạt thương vụ giao dịch đã được công bố trong 3 năm trở lại đây. Trong đó có việc nhà đầu tư Nhật Bản Hankyu Realty và Nishi Nippon Railroad hợp tác cùng Nam Long; Sanyo Homes với Tiến Phát; Mitsubishi Corporation và Phúc Khang; Sumitomo với BRG...
Phân khúc đầu tư của các liên doanh rất đa dạng, nhắm đến phân khúc căn hộ trung cấp và bình dân. Theo xu hướng này, có rất nhiều nhà đầu tư đang cân nhắc và sẵn sàng tham gia liên doanh, góp vốn với các chủ đầu tư Việt Nam có uy tín tốt. Lợi thế của các chủ đầu tư trong nước là sự thông hiểu thị trường, hệ thống hành lang pháp lý, danh mục các bất động sản đã được xác lập, trong khi các nhà đầu tư nước ngoài với tiềm lực về vốn và kinh nghiệm phát triển dự án sẽ làm gia tăng giá trị dự án.
Năm 2018 đánh dấu một chặng đường 10 năm kể từ khi suy thoái của thị trường bất động sản và gần 5 năm của thị trường trên đà hồi phục. Với các chính sách tiền tệ dự kiến sẽ duy trì trung lập để hỗ trợ tăng trưởng, khi những dòng vốn FDI hàng trăm triệu USD sẵn sàng đổ vào, dự kiến thị trường bất động sản sẽ tiếp tục tăng trưởng.
Hoạt động mua bán -sáp nhập (M&A) và đầu tư trực tiếp sẽ tiếp tục đón nhận những kỷ lục mới. Bên cạnh phân khúc nhà ở, các tài sản công nghiệp và hậu cần tiếp tục là phân khúc có sức hút mạnh mẽ do việc thiếu hụt các khu nhà máy kỹ thuật cao, không gian kho vận hậu cần hiện đại và nhu cầu mạnh mẽ từ khách thuê nước ngoài...
Theo đánh giá của bà Nguyễn Hoài An, Giám đốc Nghiên cứu, tư vấn, định giá và quản lý tài sản Công ty CBRE Việt Nam, việc các nhà đầu tư nước ngoài đổ vốn vào thị trường bất động sản là cơ hội giúp các chủ đầu tư trong nước huy động vốn trong bối cảnh tín dụng bất động sản không thuận lợi, lãi suất tăng như hiện nay. Đồng thời làm gia tăng sự cạnh tranh trên thị trường và thúc đẩy sự chuyên nghiệp hóa của các doanh nghiệp bất động sản trong nước.
Theo Nam Huyền
Vneconomy
Toàn cảnh dòng vốn FDI vào bất động sản 10 năm qua Theo báo cáo của JLL Việt Nam về dòng vốn FDI 10 năm qua, tính đến hết năm 2017 tổng vốn đăng ký đầu tư xấp xỉ 318,72 tỷ USD, trong đó, lĩnh vực bất động sản (BĐS) đạt 53,2 tỷ USD. Đáng chú ý, lượng FDI vào Việt Nam trong ba năm gần đây (2015-17) không ngừng tăng so với giai đoạn...