Kỳ công như bánh kà tum
Trong tiếng Khmer, bánh kà tum có nghĩa là bánh trái lựu. Loại bánh này được gói kín trong lá thốt nốt; bên trong có gạo nếp, đậu trắng, dừa, đường cát, muối…
Phần vỏ bánh kà tum được thắt rất công phu từ lá thốt nốt
Bánh kà tum chỉ có ở vùng đất Ô Lâm và hiện diện vào những dịp lễ, tết quan trọng của đồng bào Khmer như: Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây, lễ Dolta, lễ hội Ooc-om-bok…
Theo bà Neáng Phương, nguyên liệu làm bánh chủ yếu là nếp, đậu trắng, dừa nạo, đường, muối. Nếp sau khi mua về ngâm qua một đêm, gút sạch, để ráo. Tiếp đến là cho đậu trắng, nước cốt dừa cùng chút muối và đường trộn đều cho thấm gia vị. Lá dùng gói bánh được chuẩn bị rất công phu, bà con phải trèo lên ngọn cây thốt nốt lựa những tàu lá non chặt đem xuống, lau sạch, rọc từng mảnh rồi đan thành hình vuông; riêng phần chóp có hình dáng giống như cánh hoa đang bung nở.
Nghe qua có vẻ đơn giản, nhưng để làm được một cái bánh kà tum thì rất kỳ công, nhất là phần tạo hình vỏ bánh từ lá thốt nốt. Muốn làm bánh vừa ngon, vừa đẹp, người thợ phải chuẩn bị trước phần khuôn bánh được thắt từ lá thốt nốt. Khi thắt được chừng một chục vỏ bánh xong, người thợ mới khéo léo bỏ phần nhân bánh vào bên trong.
Video đang HOT
Bánh kà tum đã luộc chín
Bà Neáng Phương (bìa phải) mời khách bánh kà tum do chính tay bà làm
Do hình dáng bánh đặc biệt nên dù đã thạo nghề, bà Neáng Phương vẫn phải mất hơn 5 phút mới làm xong 1 vỏ bánh kà tum.
“Với loại bánh này, khâu nào cũng khó. Thắt bông và làm thân cho vỏ bánh đã khó, đến khi cho nhân vào càng khó hơn. Người thành thạo như tôi dù có làm suốt ngày cũng chỉ được chừng 100 cái bánh. Hiện tôi có dạy 1 – 2 người học nghề làm bánh này nhưng họ chưa làm được, thắt khuôn chưa đồng đều…”, bà Neáng Phương chia sẻ.
Bánh sau khi gói xong được nấu trong nước sôi từ 30 – 45 phút, tùy bánh lớn hay nhỏ. Sau đó vớt ra, chần qua nước lạnh rồi để ráo. Nhìn bề ngoài, bánh kà tum có màu vàng nhạt, hình dáng lạ mắt. Khi lột bỏ lá, không dính vào vỏ bánh, vỏ bánh sáng bóng, lấm chấm những hột đậu trắng, nếp mềm mịn, dẻo thơm, đậu trắng và nước cốt dừa beo béo. Đặc biệt, bánh còn có mùi vị đặc trưng của lá thốt nốt sau nhiều giờ chìm trong nồi nước trên ngọn lửa đỏ.
Theo Thanhnien
Về Bảy Núi thưởng thức bánh kà tum
Bánh kà tum mang ý nghĩa của sự đủ đầy, sung túc nên chỉ xuất hiện trong các dịp lễ, Tết truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số Khmer như: Chol Chnam Thmay, Sen Dolta...
Bánh kà tum không chỉ hấp dẫn, bắt mắt từ hình dáng cho đến sự hòa quyện hương vị của các nguyên liệu bên trong, mà còn mang trong mình bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số Khmer.
Theo tiếng Khmer, kà tum có nghĩa là "trái lựu". Có lẽ cũng chính từ hình dáng bên ngoài nhìn trông giống như trái lựu này mà bánh được đặt tên là bánh kà tum. Do đây là loại bánh rất khó làm, đòi hỏi sự tỉ mỉ, cầu kỳ trong cách gói nên hiện rất ít người biết cách làm, cũng như gói được một chiếc bánh đẹp.
Bà Néang Phương (ở xã Ô Lâm, Tri Tôn, An Giang) là một trong số rất ít người còn giữ được tay nghề gói bánh kà tum đều và đẹp cho đến hôm nay. Được người mẹ truyền nghề gói bánh kà tum từ thời còn con gái, tính đến giờ đã "ngót nghét" gần 40 năm bà Néang Phương gắn bó với chiếc bánh kà tum của dân tộc mình.
Để làm bánh kà tum phải chuẩn bị các nguyên liệu như: lá thốt nốt, nếp, đậu trắng, dừa, đường, muối... Nghe tưởng chừng đơn giản, nhưng để gói được chiếc bánh kà tum đòi hỏi sự kỳ công, khéo léo từ tay nghề của người thợ, nhất là phần tạo hình vỏ bánh từ lá thốt nốt. Lá thốt nốt dùng gói bánh phải là loại lá non vừa chặt xong, đem xuống lau sạch, đan thành hình vuông, với 8 cạnh đều đặn. Riêng về phần chóp bánh tạo hình giống như cánh hoa đang bung nở.
"Chọn lá thốt nốt non bởi nó mềm, đan vỏ bánh dễ hơn, màu cũng đẹp khi bánh được nấu chín. Còn đối với những lá già thì vừa cứng, màu đậm, gói bánh không đẹp", bà Néang Phương chia sẻ.
Phần nguyên liệu làm bánh cũng được sơ chế như nhiều loại bánh khác, như nếp sau khi mua về ngâm qua 1 đêm, gút sạch, để ráo. Tiếp đến là cho đậu trắng, dừa nạo, thêm chút muối và đường trộn đều cho thấm gia vị, nêm nếm sao cho vừa ăn là được.
Muốn làm bánh vừa ngon, vừa đẹp, người thợ phải định hình khuôn bánh bằng lá thốt nốt từ trước. Khi thắt được chừng một chục vỏ bánh, người thợ phải khéo léo bỏ phần nhân bánh vào bên trong. Để hoàn thành một chiếc bánh kà tum thì khâu nào cũng khó, từ đan phần thân bánh, thắt phần cánh hoa xòe nở phía trên hay bước cho gạo vào cũng tốn nhiều thời gian.
"Tôi làm nhiều năm như vậy chớ để làm xong 1 chiếc bánh phải tốn chừng 5 phút, 1 ngày nhiều lắm làm được 100 cái", bà Néang Phương cho hay.
Bánh sau khi gói xong được nấu trong nước sôi từ 30-45 phút. Bánh chín sẽ được vớt ra, rửa sơ qua bằng nước lạnh rồi để ráo. Bánh kà tum có màu vàng nhạt, hình dáng lạ mắt, rất đẹp. Khi muốn ăn, phải cắt bỏ phần lá bên ngoài sẽ thưởng thức được nhân bên trong với phần nếp dẻo, dậy mùi của dừa, đậu trắng và đặc biệt là mùi vị đặc trưng của lá thốt nốt sau thời gian được nấu trên ngọn lửa đỏ. Chiếc bánh ngon phải có sự hòa quyện mùi thơm của nếp, vị bùi, đậu trắng, nếu có thêm nhân chuối thì càng đậm đà hơn... Sẽ còn gì bằng khi được thưởng thức một món bánh ngon, thêm vào đó là cảm nhận tay nghề khéo léo của người thợ gói bánh.
Thời gian qua, bà Néang Phương có dạy nghề cho một số chị em phụ nữ ở địa phương, với mong muốn lưu giữ được loại bánh đặc sản của dân tộc, cũng như tạo ra sản phẩm đặc trưng cho địa phương. Bên cạnh đó, xã Ô Lâm đang có kế hoạch để bảo tồn chiếc bánh dân gian này, bằng cách giới thiệu với du khách gần xa loại đặc sản độc đáo này tại điểm dừng chân, lễ hội bánh dân gian... được tổ chức trong và ngoài tỉnh.
Theo An giang
Thơm ngon trái trồi rừng xứ Nghệ Mùa này, ở vùng núi thuộc huyện Anh Sơn (Nghệ An ) trái trồi rừng đã già và rơi rụng. Người dân nơi đây thường nhặt loại trái này về luộc chín, sau đó tách lấy hạt để ăn. Trồi là cây mọc tự nhiên, thích hợp với nhiều chất đất khác nhau và có ở khắp mọi nơi từ đất cằn sỏi...