Kinh tế Việt Nam tăng trưởng vững nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro
Theo báo cáo Điểm lại – ấn phẩm bán thường niên về kinh tế Việt Nam của Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam năm nay dự báo vẫn ở mức 6,8%, trong điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định, cao hơn con số 6,3% dự báo cho các nền kinh tế thị trường mới nổi ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương.
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã chứng tỏ sự vững vàng cho dù có trở lực bên ngoài, chủ yếu nhờ vào sức cầu mạnh trong nước kết hợp sự năng động của các ngành chế tạo, chế biến theo định hướng xuất khẩu.
Họp báo công báo Báo cáo Điểm lại của WB, diễn ra chiều 11/12
Phát biểu tại cuộc họp báo diễn ra chiều 11/12, ông Ousmane Dione, Giám đốc WB Việt Nam, nhận định: “Cho dù bối cảnh toàn cầu có nhiều thách thức, Việt Nam tiếp tục đạt tăng trưởng vững, song song với lạm phát ở mức vừa phải và có tỷ giá tương đối ổn định”.
Theo đó, các nhà hoạch định chính sách nên tận dụng lợi thế trong lúc động lực tăng trưởng còn đang thuận lợi để đẩy mạnh cải cách cơ cấu nhằm tăng cường đầu tư và tăng trưởng dựa trên khu vực tư nhân, song song với cải thiện hiệu suất đầu tư công.
Về trung hạn, tăng trưởng của Việt Nam dự kiến đi theo xu hướng toàn cầu – giảm dần xuống mức 6,6% và 6,5% cho các năm 2019 và 2020. Lạm phát vẫn được duy trì thấp ở mức 4% do chính sách tiền tệ sẽ được thắt chặt.
Tuy nhiên, theo WB, triển vọng trên vẫn tiềm ẩn những rủi ro đang tích tụ, theo hướng xấu đi. Trong bối cảnh thương mại Việt Nam có độ mở cao, dư địa chính sách tài khóa và tiền tệ còn hạn chế, Việt Nam vẫn dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động bên ngoài. Căng thẳng thương mại toàn cầu leo thang có thể dẫn đến suy giảm nhu cầu về các mặt hàng xuất khẩu, đồng thời thanh khoản trên toàn cầu bị thắt chặt có thể làm giảm dòng vốn đầu tư cũng như đầu tư nước ngoài. Trong nước, cải cách doanh nghiệp nhà nước và khu vực ngân hàng chậm lại có thể ảnh hưởng đến viễn cảnh tăng trưởng và gia tăng các nghĩa vụ cho khu vực công.
Theo ông Sebastian Eckardt, Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam: “Tăng trưởng toàn cầu giảm tốc, căng thẳng thương mại đang diễn ra và rủi ro tài chính tăng cao đang che mờ triển vọng toàn cầu. Là một nền kinh tế mở, Việt Nam cần duy trì chính sách tiền tệ có khả năng ứng phó, tỷ giá linh hoạt và bội chi ngân sách thấp để nâng cao khả năng chống chịu những cú sốc có thể diễn ra.”
Đầu tư vẫn theo xu hướng tốt trên cơ sở đầu tư khu vực tư nhân bao gồm cả khu vực FDI, trong khi đó, đầu tư công có xu hướng suy giảm so với trước đây.
Bên cạnh đó, xuất khẩu ròng đóng góp tích cực trong tăng trưởng 6 tháng đầu năm. Cán cân thương mại có cải thiện trong năm 2018. Cụ thể, thặng dư thương mại của Việt Nam vượt trội so với các quốc gia trong khu vực và thế giới. Như vậy, theo chuyên gia kinh tế trưởng WB, Việt Nam đang có sự mở rộng thị phần thương mại so với các quốc gia ASEAN khác.
Video đang HOT
Báo cáo này cũng chỉ ra rằng, mặc dù thuế quan đang giảm nhanh nhưng số lượng các biện pháp phi thuế quan lại đang tăng lên. Mức thuế ưu đãi bình quân của Việt Nam đã giảm từ 13,1% năm 2003 xuống còn 6,3% năm 2015. Ngược lại, số lượng các biện pháp phi thuế quan lại tăng đến trên 20 lần trong cùng kỳ. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các biện pháp phi thuế quan, nếu được thiết kế và triển khai không tốt, có thể gây hạn chế thương mại, làm méo mó giá cả, và suy yếu năng lực cạnh tranh quốc gia.
Theo báo cáo, hệ thống các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam vẫn còn phức tạp, chưa rành mạch và tốn kém, dẫn đến chi phí tuân thủ cao. Một nghiên cứu đưa ra ước tính rằng thuế quan trị giá tương đương của các biện pháp vệ sinh dịch tễ mà Việt Nam đang áp cho hàng nhập khẩu hiện ở mức 16,6%, so với mức bình quân là 8,3% ở các quốc gia ASEAN.
Trong bối cảnh Hiệp định Hợp tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Tự do Thương mại Việt Nam – EU (EVFTA) vừa được thông qua, phần chuyên đề đặc biệt của ấn bản Báo cáo Điểm lại kỳ này tập trung bàn về việc đơn giản hóa các biện pháp phi thuế quan nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam. Bản phân tích có tính thời sự này là một sản phẩm của Chương trình Hợp tác Chiến lược giữa Australia và Nhóm WB tại Việt Nam giai đoạn 2 (ABP2).
Nguyễn Hường
Theo congthuong.vn
Doanh nghiệp ngành thép: Biên lợi nhuận giảm
Kết quả kinh doanh trong hơn 1 năm gần đây của các doanh nghiệp thép niêm yết cho thấy hầu hết đang trong đà giảm biên lợi nhuận.
Là doanh nghiệp lớn và có biên lợi nhuận cao nhất ngành, song Công ty cổ phần Tập đoàn Hòa Phát (HPG) cũng đang phải chứng kiến đà giảm.
Biên lợi nhuận gộp của một số doanh nghiệp.
Chưa có số liệu quý III/2018, song từ quý III/2017 tới quý II/2018, biên lợi nhuận gộp của HPG giảm gần 2,4%, từ 22,58% xuống 20,2%; biên lợi nhuận ròng giảm hơn 2%.
Tương tự, trong 4 quý gần nhất, Công ty cổ phần Tập đoàn Hoa Sen (HSG) có biên lợi nhuận gộp giảm 6,3%, từ 16,3% xuống 10%.
Trên thực tế, đa số doanh nghiệp ngành thép vẫn đạt được sự tăng trưởng doanh thu. Tuy nhiên, giá vốn tăng cao là lý do khiến biên lợi nhuận dần đi xuống.
Chẳng hạn, Công ty cổ phần Thép Pomina (POM) trong quý III/2018 đạt doanh thu 3.470 tỷ đồng, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2017. Nhưng giá vốn tăng 16%, chiếm 3.354 tỷ đồng, khiến lợi nhuận gộp chỉ còn 116 tỷ đồng. Biên lãi gộp tương ứng là 3,3%.
Các loại chi phí của POM đều tăng: chi phí tài chính tăng 17%, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp lần lượt tăng 11% và 19,7%. Bên cạnh đó, Công ty lỗ hơn 1,9 tỷ đồng từ hoạt động khác. Kết quả, lợi nhuận sau thuế của POM chỉ còn 27,1 tỷ đồng, giảm 89% so với cùng kỳ năm ngoái; biên lợi nhuận ròng là 0,8%, giảm mạnh so với cùng kỳ cũng như các quý liền trước.
Doanh thu tăng trưởng nhưng lợi nhuận giảm mạnh cũng là tình trạng của Công ty cổ phần Thép Dana - Ý (DNY), bởi giá vốn tăng mạnh. Quý III/2018, biên lãi gộp của công ty này là 5,89%, giảm gần 4% so với cùng kỳ năm 2017.
Trong khi các doanh nghiệp lớn vẫn giữ được mức lợi nhuận "kha khá", thì ở một số doanh nghiệp thép khác, tình trạng thua lỗ chưa dừng lại.
Tại Công ty cổ phần Thép Việt - Ý (VIS), Công ty lỗ ròng hơn 64 tỷ đồng trong quý III/2018. Đáng chú ý, giá vốn tăng lên 1.207 tỷ đồng, cao hơn cả doanh thu, khiến VIS lỗ gộp 25 tỷ đồng. Đây là quý thứ hai thua lỗ của VIS. Lũy kế 9 tháng đầu năm 2018, VIS ghi nhận lỗ 130 tỷ đồng.
Hay như ở Công ty cổ phần Hữu Liên Á Châu (HLA), doanh nghiệp này tiếp tục báo lỗ trong quý III năm tài chính 2018 (tức quý I/2018), kéo dài chuỗi thua lỗ theo quý kể từ quý III năm tài chính 2013.
Ngoài các yếu tố nội tại thì các doanh nghiệp thép đang chịu ảnh hưởng lớn từ giá nguyên vật liệu thô như quặng sắt và than cốc có diễn biến tăng mạnh kể từ đầu năm.
Giá nguyên liệu sản xuất thép năm 2018 .
Nhu cầu quặng sắt trên thị trường tiếp tục tăng cao. Giá quặng sắt loại 62% FE ngày 7/10 ở mức 69 - 70 USD/tấn CFR cảng Thiên Tân, Trung Quốc, tăng khoảng 7 USD/tấn so với đầu tháng 7/2018. Giá than hiện khoảng 17.500 - 18.000 USD/tấn. Các nguyên liệu sản xuất thép khác có diễn biến giá đi ngang trong quý III/2018, trước đó có xu hướng tăng kể từ tháng 4/2017.
Nhìn chung, các doanh nghiệp ngành thép vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức. Công ty Chứng khoán Bảo Việt đánh giá, triển vọng mảng tôn mạ và ống thép không khả quan, ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp trong năm 2018.
Hàng loạt dự án tôn mạ mới hoàn thành trong giai đoạn 2017 - 2018 khiến nguồn cung tôn mạ trong nước tăng mạnh.
Tổng công suất tôn năm 2018 ước đạt 8 triệu tấn, trong khi tiêu thụ của các doanh nghiệp tôn (bao gồm cả xuất khẩu và nội địa) chỉ đạt khoảng 4 - 5 triệu tấn.
Đáng chú ý, việc gia tăng công suất trong năm 2017 - 2018 chủ yếu đến từ các doanh nghiệp có thị phần lớn, mức cạnh tranh khá khốc liệt để giữ được thị phần và đẩy mạnh tiêu thụ thông qua chiết khấu, giảm giá bán...
Trong khi đó, thị trường xuất khẩu liên tục bị kiện chống bán phá giá và thị trường trong nước vẫn bị đe dọa bởi tôn mạ nhập khẩu, mặc dù đã áp thuế chống bán phá giá. Tăng trưởng tiêu thụ ống thép cũng chậm lại trong năm 2018. Tổng sản lượng tiêu thụ cả ngành trong 8 tháng đầu năm 2018 tăng 9%, thấp hơn mức tăng bình quân 30%/năm trong 4 năm gần nhất.
Theo thống kê của Hiệp hội Thép Việt Nam, trong 8 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu sắt thép thành phẩm và bán thành phẩm trong 8 tháng đầu năm 2018 của cả nước đạt hơn 5 triệu tấn, trị giá 3,705 tỷ USD, tăng 30,8% về lượng và tăng 42% về giá trị xuất khẩu so với cùng kỳ năm ngoái. ASEAN vẫn là thị trường xuất khẩu chính, với lượng xuất khẩu thép thành phẩm 2,331 triệu tấn, chiếm 57,6%.
Nhập khẩu sắt thép thành phẩm và bán thành phẩm các loại trong 8 tháng đầu năm là 10,529 triệu tấn, trị giá 8,233 tỷ USD, giảm 16,5% về lượng và giảm 22% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Nguyên Minh
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
PAN dự chi trăm tỷ nâng sở hữu tại FMC lên 45% Công ty Cổ phần Tập đoàn PAN (HoSE: PAN) vừa thông báo về việc chào mua công khai 4.762.000 cổ phiếu của Công ty Cố phần Thực phẩm Sao Ta (HoSE: FMC), tương đương 11,85% vốn điều lệ. FMC thuộc top 3 công ty xuất khẩu tôm lớn nhất Việt Nam Theo đó, giá thực hiện chào mua là 30.000 đồng/cổ phiếu. Kinh...