Kinh tế toàn cầu: Hy vọng mong manh giữa muôn trùng nỗi lo
Bất chấp số liệu GDP quý II của các nền kinh tế chính ở châu Âu và Mỹ giảm 20-33%, thị trường cổ phiếu tiếp tục đi lên. Trong đó những thị trường bị tác động rất xấu như Anh, hay số liệu GDP gây thất vọng như Đức vẫn có ngày tăng hơn 2%. Đỉnh điểm của niềm hy vọng là chỉ số chứng khoán S&P 500 của Mỹ đã quay lại rất gần đỉnh cao lịch sử 19-2-2020 trước dịch Covid-19.
Quý III “bại binh phục hận”
Sự lạc quan của nhà đầu tư ở Mỹ và châu Âu chủ yếu đến từ hy vọng của những gói kích thích kinh tế, cũng như niềm tin về một sự hồi phục mạnh mẽ trong quý III của các nền kinh tế này.
Bất chấp số ca bệnh Covid-19 vẫn tăng cao ở nhiều nước, các số liệu phân tích từ các lệnh tìm kiếm trên Google, đặt chỗ nhà hàng… vốn là những dữ liệu tần suất nhanh, không chậm chạp như GDP hay lạm phát, cho thấy hoạt động kinh tế đang tăng trưởng trở lại trong tháng 7 và 8.
Chẳng hạn chỉ số đánh giá hoạt động kinh tế của JP Morgan được lấy từ các dữ liệu lớn và tần suất nhanh như tìm kiếm trên internet, di chuyển, đặt chỗ nhà hàng, khách sạn… cho thấy sự hồi phục mang hơi hướng hình chữ V mà nhiều người mong đợi.
Dùng chỉ số này để dự báo so với đầu năm, GDP Mỹ chỉ giảm khoảng 5%, mức cải thiện vô cùng lớn so với con số tệ hại của quý II.
Một đợt sụp đổ các ngân hàng nhỏ, tiệm bán hàng nhỏ ở Mỹ sẽ kéo theo vài triệu người thất nghiệp. Đó sẽ là làn sóng đánh mạnh vào nền kinh tế cũng như tâm lý thị trường tài chính.
Dự báo của JP Morgan hoàn toàn dựa trên số liệu thời gian thực và diễn biến nhanh của hoạt động kinh tế, chưa tính đến những tác động tích cực nếu gói kích thích kinh tế đang tranh cãi giữa quốc hội Mỹ và Tổng thống D. Trump được thông qua.
Ngay cả trong trường hợp gói kích thích kinh tế “kẹt” lại ở quốc hội, ông Trump vẫn đang tìm các giải pháp thực thi chiến lược giảm thuế không cần thông qua quốc hội.
Ở phía ngược lại, dù nước Anh vừa chính thức đi vào suy thoái kinh tế “chưa có tiền lệ” (lời của Bộ trưởng Tài chính Anh), thị trường nhà trong tháng 7 đã khởi sắc, với việc giá nhà tăng 1,7% và khối lượng giao dịch tăng 31,7% so với tháng trước.
Con số này vẫn thấp hơn 35% so với tháng 6-2019, nhưng trong bối cảnh dịch bệnh, đây là tín hiệu lạc quan. Bởi ít nhất thị trường nhà ở Anh không còn tụt dốc mạnh như tháng 5-2020 nữa.
Với những số liệu kinh tế như vậy, nhiều đại diện quỹ đầu tư lớn đã mạnh dạn dự đoán quý III-2020 sẽ nhìn thấy một loạt “bại binh phục hận”, với việc nhiều nền kinh tế lớn có mức tăng GDP 8-15%.
Video đang HOT
Tuy mức tăng này không thể lấy lại hoàn toàn những gì đã mất trong quý II, nhưng đó là tiền đề tốt để các quỹ đầu tư dự đoán các cổ phiếu vẫn còn nằm gần đáy như ngân hàng, khách sạn, máy bay sẽ bắt đầu đợt tăng mạnh, trong khi nhóm cổ phiếu công nghệ tạm ngừng một chút.
Với giới kinh doanh tiền tệ và chứng khoán, kinh tế chỉ là một lý do để người ta đẩy giá cổ phiếu. Sự thật đằng sau là bởi vì họ rất tự tin rằng Fed đang hậu thuẫn cho thị trường tài chính, và sẽ giữ cho thanh khoản và lãi suất ở mức gần 0, thậm chí âm trong một thời gian dài nữa.
Nhiều đại diện quỹ đầu tư đã không ngần ngại thừa nhận “có rất nhiều tiền trên thị trường” như một lý lẽ ủng hộ cho cái nhìn lạc quan của họ. Khi người ta có Fed, người ta không cần nền kinh tế hoạt động tốt để giá cổ phiếu tiếp tục lên.
Đừng quá vui vì chẳng thể kéo dài do dịch bệnh
Trong lúc nhiều người hưng phấn và chờ đợi S&P 500 vượt qua cột mốc lịch sử, kéo thị trường toàn cầu tăng điểm, vẫn còn một số người cảnh báo cuộc vui này chẳng được bao lâu. Thông điệp đầu tiên được những nhà phân tích thị trường kỳ cựu như Jim Cramer của CNBC hay Mohamed El-Erian của Allianz, cảnh báo nhà đầu tư nên “vui thôi, đừng vui quá”.
Nỗi lo của những nhà phân tích này, không biết vô tình hay cố ý, lại cùng nằm ở vấn đề một đợt phá sản lớn đang chờ đợi kinh tế Mỹ và châu Âu. Đây là vấn đề chuỗi bình luận FT Alphaville của Financial Times đã đề cập từ tháng 6. Trong nửa cuối 2020, các nền kinh tế lớn có thể đối mặt với chuỗi phá sản các nhà hàng, tiệm ăn, công ty lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ lớn chưa từng có.
Các ngân hàng lớn cũng đã dự đoán điều này và tiếp tục gia tăng thêm dự phòng rủi ro không thu được nợ trong quý II, bất kể đã tăng mạnh dự phòng trong quý I. Với những mức dự phòng lớn chưa từng có của Bank of America (BOA) ở Mỹ hay Barclays ở Anh, họ ngầm giả định mức phá sản 5-10% cho một số lĩnh vực của nền kinh tế.
Đây là tỷ lệ chưa từng có tiền lệ trong hơn 10 năm trở lại đây, một bạn học của tôi làm quản trị rủi ro ngân hàng ở Canada chia sẻ. Tỷ lệ phá sản 5-10% ngoài sức tưởng tượng này hiện tại không còn là xa lạ với dân trong nghề định giá rủi ro phá sản, khi hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch cũng thừa nhận vào giữa tháng 7, là tỷ lệ phá sản của doanh nghiệp Mỹ có thể đạt 5,5%, cao nhất trong vòng 10 năm qua.
Trong nửa cuối 2020, các nền kinh tế lớn có thể đối mặt với chuỗi phá sản các nhà hàng, tiệm ăn, công ty lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ lớn chưa từng có. Các ngân hàng lớn cũng đã dự đoán điều này và tiếp tục gia tăng thêm dự phòng rủi ro không thu được nợ trong quý II, bất kể đã tăng mạnh dự phòng trong quý I.
Chesapeake Energy, công ty dầu đá phiến thuộc hàng lớn của nước Mỹ, đã đánh dấu thương vụ phá sản lớn nhất ngành dầu khí Mỹ trong năm nay. Nhưng người ta cho rằng mọi việc không dừng lại ở đó. Sẽ có thêm nhiều công ty dầu khí phá sản nếu dịch bệnh bùng phát vào mùa thu-đông.
Một chút tiền huy động được để chống đỡ của các công ty dầu khí sẽ khó trụ được qua đợt sụt giảm giá dầu về dưới 30USD/thùng lần nữa. Ngay cả trong trường hợp giá dầu không sụt giảm dưới 30USD/thùng, nhiều nhà hàng, tiệm bán quần áo, hàng xa xỉ ở Mỹ cũng vẫn đang đóng cửa và đứng trước bờ vực phá sản.
Kéo theo là những ngân hàng cho vay nhiều ở các lĩnh vực này, đặc biệt các ngân hàng khu vực có quy mô nhỏ. S&P Market Intelligence đã làm bảng xếp hạng các ngân hàng có mức độ cho vay cao ra khu vực cửa hàng bán lẻ.
Theo đó, những ngân hàng lớn như BOA đứng đầu về số cho vay tuyệt đối, tỷ trọng trong toàn bộ danh mục cho vay của họ chỉ khoảng 5% trở lại, trong khi nhiều ngân hàng nhỏ lại có tỷ trọng cho vay các cửa hàng bán lẻ tới 19-23% danh mục.
Một đợt sụp đổ các ngân hàng nhỏ, tiệm bán hàng nhỏ ở Mỹ sẽ kéo theo vài triệu người thất nghiệp. Đó sẽ là làn sóng đánh mạnh vào nền kinh tế cũng như tâm lý thị trường tài chính.
Vì vậy, sự xoay chuyển dòng vốn trong mấy ngày vừa qua của thị trường cổ phiếu toàn cầu vào các ngân hàng, hãng máy bay, tàu du lịch và nhà hàng, có lẽ sẽ sớm dừng lại. Người ta rồi sẽ nhận ra họ vẫn phải trải qua đợt hồi phục kinh tế chậm chạp trong quý IV sau đợt tăng mạnh của các chỉ số kinh tế trong quý III.
Và nếu đợt bùng phát dịch bệnh mùa thu-đông thật sự đáng sợ như dự đoán của nhiều chuyên gia y tế, dòng vốn trên thị trường sẽ lại dịch chuyển vào những cổ phiếu công nghệ và dược phẩm.
Khi đó sẽ không có đợt lạm phát mạnh như dự đoán (hỗ trợ giá vàng) hay đợt tăng giá ào ạt của ngân hàng, nhà hàng, tàu du lịch và máy bay như người ta chờ đợi kéo dài từ đây đến hết quý IV. Thay vào đó, dòng cổ phiếu y dược và công nghệ vẫn sẽ là tài sản an toàn giúp người ta vượt dịch bệnh.
Vì dịch bệnh, vắcxin, và thuốc trị là những yếu tố không ai có thể dự đoán, nên nhóm lạc quan với hồi phục kinh tế lẫn nhóm thận trọng cho rằng đợt bùng nổ thị trường này sẽ chẳng thế kéo dài quá vài tuần đều có thể đúng.
Niềm hy vọng đang chiếm ưu thế trên thị trường tài chính quốc tế, và đang kéo giá nhiều tài sản lên. Nhưng đằng sau nó vẫn là muôn trùng những nỗi lo.
Lựa chọn gói kích thích kinh tế lần 2
Trước ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, Việt Nam đã đưa ra gói kích thích tài khóa bao gồm giảm thuế và tiền thuê đất trị giá 180.000 tỷ đồng, tương đương 3% GDP; gói an sinh xã hội 62.000 tỷ đồng, hỗ trợ giá điện 11.000 tỷ đồng và hoãn đóng bảo hiểm xã hội 9.500 tỷ đồng.
Từ đầu tháng 7, đã có ý kiến đề xuất gói hỗ trợ cho doanh nghiệp (DN) và gói hỗ trực tiếp người dân lần 2. Trong trong phạm vi bài viết này, chúng tôi thảo luận một số lựa chọn tài trợ cho gói kích thích kinh tế lần 2 (nếu có).
Chấp nhận thâm hụt ngân sách
Trong bối cảnh hiện nay, các nhà phân tích chính sách trong và ngoài nước đều thống nhất với nhau phải chi tiền từ ngân sách để cứu DN, người dân và toàn bộ nền kinh tế. Theo đó, Chính phủ cần gia tăng chi tiêu và chấp nhận gia tăng thâm hụt ngân sách.
Thông thường, khuôn khổ tài trợ thâm hụt ngân sách thường phụ thuộc vào các chính sách thuế, tiêu dùng và vay nợ. Ngoài ra, đối với các quốc gia có tỷ trọng kinh tế nhà nước cao như Việt Nam, một công cụ có thể sử dụng là chuyển nhượng các tài sản công, bao gồm các tài sản phi tài chính và thoái vốn tại các công ty cổ phần thuộc sở hữu nhà nước.
Hay như phương thức tài trợ thâm hụt ngân sách đó là tiền tệ hóa thâm hụt, còn được gọi là "tiền trực thăng".
Đối với mỗi phương thức tài trợ này sẽ có các yếu tố hay tiêu chí ảnh hưởng đến không gian của chính sách. Theo Atashbar (2020) có 4 tiêu chí ảnh hưởng đến không gian tài khóa.
Thứ nhất, để thực hiện chính sách tài khóa đòi hỏi phải có khả năng hoặc tiềm năng tạo ra nguồn lực để thực thi. Chẳng hạn, các quốc gia có tỷ lệ động viên thuế thấp hoặc có nhiều tài nguyên (như dầu mỏ), sẽ có nhiều không gian cho chính sách thuế.
Thứ hai liên quan tác động của chính sách đến các khu vực kinh tế, thậm chí toàn bộ nền kinh tế. Chỉ tiêu này có thể được phân tích thông qua các mô hình kinh tế vĩ mô hoặc các khung phân tích kinh tế khác.
Thứ ba, thời gian để tạo ra nguồn lực và thứ tư là tính bền vững của chính sách, tức liệu chính sách có thể thực hiện được nhiều lần trong trung hạn hay dài hạn hay không.
Lựa chọn chính sách có bộ đệm
Khi khả năng vay trên thị trường quốc tế của các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam đang hạn chế, việc phát hành trái phiếu cho nhà đầu tư trong nước có thể là lựa chọn khả dĩ.
Để đáp ứng cho các khoản hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, chúng tôi đưa ra khung phân tích các lựa chọn chính sách tài khóa cho Việt Nam theo các nguồn gồm thuế, vay nợ, chuyển nhượng tài sản công và tiền tệ hóa thâm hụt.
Đối với chính sách thuế, hiện tại không gian cho nó không nhiều do sự suy giảm trong hoạt động của các khu vực và thành phần kinh tế. Ngoài ra, chính phủ cũng đang thực hiện việc hoãn và miễn giảm thuế để hỗ trợ cho DN.
Với vay nợ có thể là nguồn tài trợ cho Việt Nam hiện nay. Trong tháng 4 có thông tin Bộ Tài chính đang đàm phán với các tổ chức cho vay tiềm năng, gồm Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á để vay 1 tỷ USD.
Tuy nhiên, khi khả năng vay trên thị trường quốc tế của các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam đang hạn chế, việc phát hành trái phiếu cho nhà đầu tư trong nước có thể là lựa chọn khả dĩ.
Hơn nữa, việc đi vay nợ sẽ gặp rào cản là tính bền vững của nợ công khi tỷ lệ nợ công trên GDP bị khống chế ở mức 65%. Do vậy, việc nâng trần nợ công có thể cần được xem xét trong tương lai. Để thu hút các nhà đầu tư trong nước mua trái phiếu trong giai đoạn hiện nay, Chính phủ có thể xem xét việc phát hành trái phiếu có lãi suất điều chỉnh theo lạm phát.
Về việc chuyển nhượng các tài sản công, theo kế hoạch, Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) thoái vốn tại 85 DN trong năm 2020 với giá trị vốn điều lệ hơn 16.720 tỷ đồng, trong đó có nhiều DN đang niêm yết với giá trị vốn hóa thị trường lớn. Vấn đề đặt ra là thời gian để thực hiện việc này, khi trong năm 2019, SCIC chỉ thoái vốn được 82 tỷ đồng tại 12 DN, thu về cho Nhà nước 314 tỷ đồng, gấp 3,8 lần giá trị vốn bán ra.
Cuối cùng, tiền tệ hóa thâm hụt, phương thức đang được sử dụng tại các quốc gia phát triển. Việc thực hiện phương thức này đòi hỏi phải xác định liều lượng tiền cung ứng, thời gian thực hiện cũng như hậu quả không mong muốn ở hiện tại hay tương lai. Để làm điều này cần dựa trên các mô hình kinh tế vĩ mô, không thể dựa trên mô hình phân tích kinh tế đơn giản. Tuy vậy, đây là sự đánh đổi đặt ra cho Việt Nam khi thực hiện chính sách này là hồi phục kinh tế và chấp nhận các rủi ro kèm theo.
Ngoài việc phân tích các lựa chọn chính sách liên quan đến các cơ chế tạo nguồn lực, mỗi mục tiêu chi ngân sách (ở đây là sức khỏe, hộ gia đình, DN) còn được đánh giá dựa trên quy mô, ý nghĩa hoặc tầm quan trọng của việc chi tiêu, mức độ khẩn cấp và thời gian thực hiện. Khía cạnh khác ngoài việc chi tiêu và quan trọng nhất, là vấn đề nhận dạng nhằm đảm bảo việc chi tiêu của quốc gia đạt được mục tiêu tạo tấm đệm cho việc hồi phục kinh tế.
6 tháng đầu năm 2020, lợi nhuận trước thuế ngân hàng MSB đạt trên 970 tỷ đồng, tăng trưởng 72% Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (MSB) vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất 6 tháng đầu năm 2020 sau kiểm toán. Cụ thể, mặc dù chịu những ảnh hưởng nhất định của Covid 19 trong 6 tháng đầu năm 2020, nhưng với định hướng chiến lược rõ ràng, cùng cơ cấu nguồn vốn tốt và tổng tài sản cán...