Kiều hối 10 đồng thì 7 đồng chuyển về qua đường “chợ đen”
“Có người muốn chuyển về 10 đồng, nhưng chỉ có thể chuyển qua ngân hàng chưa đến 3 đồng, còn 7-8 đồng còn lại phải chuyển qua đường khác ( chợ đen)”, Trưởng đại diện Hội doanh nghiệp Việt kiều Ba Lan tại Việt Nam chia sẻ. Qua đó cho thấy, số liệu kiều hối về Việt Nam trên thực tế có thể cao hơn rất nhiều con số báo cáo.
Trong giai đoạn 1991 – 2014, lượng kiều hối lũy kế vào Việt Nam ước khoảng 92 tỷ USD, cộng thêm khoảng 10 tỷ USD vốn Việt kiều đầu tư về nước thông qua FDI thì tổng lượng kiều hối lũy kế vào Việt Nam trong giai đoạn này rơi vào khoảng 102 tỷ USD, gần tương đương so với tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thuần vào Việt Nam cùng giai đoạn này (khoảng 100 tỷ USD).
Thế nhưng, về hiệu ứng và thành quả thì FDI lại đang thể hiện tích cực hơn nhiều so với kiều hối.
Là nguồn lực quan trọng nhưng phần lớn kiều hối chuyển về nước vẫn phải đi theo đường xách tay, chợ đen (ảnh minh họa)
Chia sẻ tại hội thảo khoa học quốc gia “Mối quan hệ giữa kiều hối và hoạt động đầu tư tại Việt Nam” mới đây, PGS.TS Phạm Văn Hùng – Trưởng khoa Đầu tư, trường ĐH Kinh tế Quốc Dân cho biết, kiều hối sẽ bổ sung nguồn trực tiếp cho đầu tư kinh doanh, góp phần gia tăng tiêu dùng, tăng tổng cầu, thúc đẩy gia tăng đầu tư. Cùng với đó, kiều hối cũng làm gia tăng đầu tư gián tiếp khi đầu tư vào các tài sản như bất động sản.
Tuy nhiên, mặt trái của kiểu hối đó là đầu tư kiều hối dễ thái quá vào những tài sản có tính đầu cơ cao, tạo tâm lý trông chờ vào hỗ trợ của thân nhân, thường làm thay đổi hành vi tiêu dùng, làm tăng giá, tăng khoảng cách giàu nghèo, tăng rửa tiền…
Mặc dù vậy, theo GS.TSKH Nguyễn Mại thì trong bối cảnh nợ công đã chạm mức kịch trần, Việt Nam đang có xu hướng giảm vốn ODA, kiều hối vẫn là một nguồn lực rất quan trọng và cần có chính sách tốt hơn để người Việt ở nước ngoài gửi tiền về nước, tích cực đầu tư vào sản xuất.
Video đang HOT
Trong khi đó, chuyên gia Nguyễn Minh Phong nhận định, hạn chế của chính sách hiện nay là đối xử chưa thật sự công bằng với Việt kiều cũng như nguồn kiều hối tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. Do đó, việc huy động nguồn lực kiều hối có hiệu quả hay không phụ thuộc vào việc có thực coi trọng và giải tỏa vướng mắc từ tư duy chính sách đến hành động.
Ông Phong khẳng định, xây dựng thể chế kinh tế thị trường là phải cởi trói cho khu vực tư nhân cả trong và ngoài nước một cách triệt để và đầy đủ hơn.
Với kinh nghiệm 30 sinh sống ở nước ngoài, 10 năm ở Ba Lan, ông Lê Thanh Bình, Trưởng đại diện Hội doanh nghiệp Việt kiều Ba Lan tại Việt Nam chia sẻ, muốn kêu gọi đầu tư thì phải quan tâm nhiều hơn tới doanh nghiệp Việt kiều đang đầu tư ở trong nước.
“Tiền kiều hối bên kia còn nhiều lắm. Có người muốn chuyển về 10 đồng, nhưng chỉ có thể chuyển qua ngân hàng chưa đến 3 đồng, còn 7-8 đồng còn lại phải chuyển qua đường khác (chợ đen). Quan trọng là phải có giải pháp để hoạt động chuyển kiều hối về Việt Nam được thuận lợi hơn”, ông Bình cho biết. Điều này nghĩa là con số thực tế về kiều hối có thể cao hơn rất nhiều các số liệu thống kê.
Lý giải nguyên nhân này, ông Từ Như Phong, Phó Tổng Giám đốc Công ty Chuyển tiền toàn cầu VietinBank cho rằng, thực tế thì các ngân hàng rất khuyến khích việc kiều bào chuyển tiền về nước theo con đường chính thức là qua các ngân hàng.
Tuy nhiên, do vướng phải nhiều rào cản từ luật phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố thế giới. Nhiều quốc gia hiện nay đang quy định hạn mức mỗi lần chuyển tiền ra nước ngoài cho mỗi công dân. Chẳng hạn ở Mỹ chỉ cho phép mỗi cá nhân được chuyển một khoản nhất định. Nếu chuyển với tần suất lớn có thể sẽ bị theo dõi để xem luồng tiền sạch hay bẩn. Đó cũng là một phần lý do khiến bà con kiều bào không dám gửi nhiều tiền về nước.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong cho rằng, việc bà con kiều bào thường xuyên phải gửi tiền về nước thông qua kênh không chính thức (chợ đen) là một thực tế và cũng là nguyên nhân quan trọng gây ra việc chênh lệch số liệu giữa nhiều báo cáo thống kê về kiều hối.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, lượng kiều hối ở Việt Nam 80% là có nguồn từ Việt kiều gửi về, còn lại là từ các nguồn như lao động xuất khẩu, người Việt làm việc ở nước ngoài. Trong khi đó, theo đánh giá của ông Nguyễn Mại, hiện có đến 5% người Việt Nam ở nước ngoài, con số này là lớn so với nhiều nước, trong đó có cả Trung Quốc.
Bích Diệp
Theo Dantri
Làm gì với 12 tỉ USD kiều hối/năm?
Việt Nam cần có chính sách toàn diện hơn để hướng dòng kiều hối trên 12 tỉ USD/năm chảy vào sản xuất - kinh doanh bởi đây là nguồn lực quan trọng cho đất nước.
Ngày 29-9, tại Hà Nội, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân (KTQD) phối hợp với Hiệp hội Các nhà đầu tư nước ngoài (VAFIE) tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề "Mối quan hệ giữa kiều hối và hoạt động đầu tư tại Việt Nam".
Chiếm 6%-7% GDP
PGS-TS Trần Thị Vân Hoa, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH KTQD, cho biết năm 2015, lượng kiều hối chuyển về nước đạt 12,25 tỉ USD, được xếp vào tốp 10 nước thu hút kiều hối hàng đầu thế giới và chỉ đứng thứ 2 khu vực Đông Á, sau Philippines. Từ năm 2013 đến nay, tổng lượng kiều hối chuyển về nước chiếm từ 6%-7% GDP, gần bằng mức thực hiện của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam và cao gấp hơn 2 lần so với mức giải ngân vốn phát triển không hoàn lại (ODA).
Việt Nam là một trong những quốc gia nhận kiều hối lớn nhất thế giới. Ảnh: TẤN THẠNH
PGS-TS Phạm Văn Hùng, Trưởng Khoa Đầu tư Trường ĐH KTQD, phân tích trong tổng số kiều hối nói trên, 80% là của Việt kiều (những người di cư ở giai đoạn năm 1973 đến sau 1975) và 7% do người lao động đi làm việc ở nước ngoài gửi về gia đình. Theo ông Hùng, tỉ lệ kiều hối chuyển về từ xuất khẩu lao động là không cao vì Việt Nam đang ở thời kỳ cơ cấu dân số vàng, trung bình mỗi năm tăng thêm khoảng 100.000 người đi xuất khẩu lao động nhưng chưa tận dụng được lợi thế. Ngoài ra, nhóm phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài có số kiều hối gửi về không đáng kể.
Xét về cơ cấu, kiều hối từ Mỹ chiếm tới 7 tỉ USD và TP HCM là địa phương đón dòng kiều hối cao nhất, khoảng 45%-55% tổng kiều hối của cả nước.
Nắn dòng vào sản xuất
Ngân hàng Thế giới đánh giá Việt Nam là nước nhận kiều hối lớn nhưng sử dụng chưa hiệu quả vì hơn 50% kiều hối chuyển về được chi vào tiêu dùng; một phần để trả nợ ngân hàng, gửi tiết kiệm trong khi phần dành cho đầu tư sản xuất - kinh doanh không nhiều.
Trong khi đó, nghiên cứu của Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) cho thấy kiều hối đầu tư vào sản xuất kinh doanh trồi sụt lớn trong các giai đoạn khác nhau. Cụ thể, từ năm 2010-2013 chiếm 27%-30%, năm 2014 chỉ còn 16% và đến năm 2015 tăng vọt lên 70,6%. TS Nguyễn Kim Chung, Phó Viện trưởng CIEM, nhận định sự biến động này là do ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế. Khi kinh tế khó khăn, người có tiền không muốn đầu tư vào sản xuất - kinh doanh mà trú ẩn ở tiết kiệm, đầu tư bất động sản... Số liệu của Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tại TP HCM cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu của CIEM. Cụ thể, 70,8% kiều hối ở TPHCM chuyển vào sản xuất - kinh doanh, khoảng 21% đổ vào bất động sản và 7% là để hỗ trợ thân nhân, gia đình.
Theo thống kê, tính đến cuối năm 2015, cả nước đã có 52 tỉnh, thành có dự án đầu tư từ kiều hối với số lượng 2.000 dự án, quy mô vốn 8,6 tỉ USD. Điều này cho thấy kênh đầu tư vào sản xuất - kinh doanh rõ ràng đã "sáng" hơn trong năm 2015 và đây là tín hiệu tốt vì chỉ khi hướng được kiều hối vào lĩnh vực này sẽ đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhiều hơn.
GS-TSKH Nguyễn Mại, Chủ tịch VAFIE, cho rằng Việt Nam cần có chính sách toàn diện hơn để hướng dòng kiều hối chảy vào sản xuất - kinh doanh bởi đây là nguồn lực quan trọng cho đất nước trong bối cảnh vốn FDI bước vào thời kỳ ổn định và vốn ODA giảm dần ưu đãi nên Việt Nam buộc phải giảm vay để bảo đảm nợ công. Theo đó, cần mở rộng kênh giao tiếp trong nước cho người dân ra nước ngoài thuận lợi để làm việc, cư trú; thiết lập kênh thông tin cho Việt kiều về chính sách đầu tư, tỉ giá hối đoái mới để họ cập nhật thông tin, làm căn cứ quyết định sử dụng đồng tiền gửi về nhà. Đặc biệt, cần xem xét nới quyền cho Việt kiều được mua bán nhà để phát triển thị trường địa ốc.
Theo_Người lao động
Yên Bái, Hậu Giang lọt nhóm 6 tỉnh "trắng FDI" Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) vừa công bố số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 9 tháng qua. Đáng chú ý có 6 địa phương "trắng FDI" như Hoà Bình, Yên Bái, Gia Lai, Hậu Giang, Lâm Đồng và Tuyên Quang. Theo Cục Đầu tư nước...