Khủng hoảng Covid-19 có thể sẽ thay đổi cách mà tiền tệ được tạo ra
Tạo ra một đồng đô la kỹ thuật số từng được cho là một “giấc mơ xa vời” cho đến khi cuộc khủng hoảng bởi virus Covid-19 xảy ra. Kế hoạch này nếu được thông qua sẽ tạo ra cuộc cách mạng trong ngành ngân hàng Mỹ và về cơ bản sẽ làm thay đổi toàn bộ lĩnh vực tài chính toàn cầu.
Sự lây lan của Covid-19 trên toàn thế giới và việc nhiều quốc gia đóng cửa biên giới đã thay đổi hoàn toàn thế giới. Tính đến thời điểm này, Covid-19 đã lây nhiễm cho khoảng 1,3 triệu người và cướp đi sinh mạng của hơn 70.000 người trên khắp thế giới.
Có thể nói Covid-19 là một đại dịch khủng khiếp chưa từng thấy: về sự lây lan của nó thông qua một thế giới toàn cầu hóa; trong quy mô phản ứng của chính phủ và cách mọi người phản ứng trên các phương tiện truyền thông.
Hậu quả kinh tế của việc nhiều quốc gia đóng cửa được dự báo sẽ kéo dài trong suốt thế kỷ này và theo đó, cách thức mà tiền được tạo ra, phân phối và chi tiêu cũng sẽ không giống như trước.
Trước ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã có kế hoạch đưa ra gói hỗ trợ trị giá 4 nghìn tỷ USD, bơm hơn 1 nghìn tỷ USD vào hệ thống ngân hàng trong những tuần gần đây. Chủ tịch Jerome Powell hứa hẹn mức độ in tiền chưa từng thấy và gọi đó là “nới lỏng định lượng đến vô cùng” thông qua chương trình mua trái phiếu không giới hạn.
Fed cũng đã cắt giảm lãi suất chuẩn xuống gần bằng 0 và đảm bảo các ngân hàng thương mại sẽ tiếp tục cho vay đối với các công ty, thành phố và các tiểu bang. Tất cả đã được thông qua, các biện pháp “phi thường” dự kiến sẽ khiến bảng cân đối của Fed tăng thêm 4,5 nghìn tỷ USD trong năm nay, vượt xa mức tăng trưởng của nó trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Các bộ trưởng tài chính của khu vực sử dụng đồng tiền chung Châu Âu (Eurozone) cũng dự kiến sẽ phê duyệt các gói tài trợ mới cho các quốc gia đang vật lộn với đại dịch Covid-19 trên khắp lục địa.
Theo tính toán của tờ Financial Times, các cơ quan quản lý tài chính trên toàn cầu cũng đã giải phóng khoảng 500 tỷ USD để giúp các ngân hàng “xoa dịu tổn thương” mà đại dịch Covid-19 gây ra. Tất cả đều hy vọng rằng điều này sẽ giúp tín dụng được duy trì trơn tru mặc dù rất nhiều doanh nghiệp đang phải tạm dừng hoạt động nhưng sẽ phần nào đẩy lùi được hậu quả của cuộc khủng hoảng này.
Bất chấp hành động phối hợp với quy mô lớn của các ngân hàng trung ương và chính phủ trên khắp thế giới, nền kinh tế toàn cầu đang đi đến sự suy thoái lớn nhất kể từ cuộc Đại khủng hoảng gần 100 năm trước.
Video đang HOT
Các biện pháp kích thích kinh tế kỷ lục liên tiếp được tung ra cùng với những yêu cầu của chính phủ các nước nhằm hạn chế chi tiêu của người dân. Với tình trạng này, không một ai chắc chắn được những tác động ngắn, trung hay dài hạn của cuộc khủng hoảng lần này sẽ là gì.
Ngoài các thiệt hại kinh tế và việc những giới hạn chính sách tiền tệ bị phá vỡ, cách mọi người thanh toán cũng đã thay đổi. Việc sử dụng tiền mặt đã giảm đáng kể, điều này khiến việc thanh toán qua các loại thẻ như Visa và Mastercard được ưa chuộng hơn cả trong thời điểm dịch bệnh phức tạp này.
“Ở Anh, việc sử dụng tiền mặt đã giảm 50% trong một vài ngày vào tháng trước khi các cửa hàng đóng cửa và mọi người trở nên lo lắng hơn về việc tiền xu có thể truyền virus”, nhà điều hành ATM lớn nhất của Anh cho biết.
Các cửa hàng trên khắp thế giới, bao gồm một số chuỗi siêu thị và cửa hàng tạp hóa, đã chọn chỉ chấp nhận thanh toán thẻ và từ chối tiền mặt. Đó là một sự thay đổi mà họ nói là chưa có tiền lệ và chỉ mới xuất hiện trong cuộc khủng hoảng Covid-19.
Kế hoạch tạo ra một đồng đô la kỹ thuật số từng được cho là một “giấc mơ xa vời” thì cho đến gần đây, đã xuất hiện trên một dự thảo ban đầu của dự luật kích thích liên đảng của Mỹ với trị giá hơn 2.000 tỷ USD. Kế hoạch này nếu được thông qua sẽ tạo ra cuộc cách mạng trong ngành ngân hàng Mỹ và về cơ bản sẽ làm thay đổi toàn bộ lĩnh vực tài chính.
Trong khi đó, hồi đầu tháng 1 năm nay, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) sau 5 năm nghiên cứu (bắt đầu từ năm 2014), cho biết đã sẵn sàng phát hành đồng tiền Nhân dân tệ phiên bản điện tử (DCEP). Theo PBoC, đồng DCEP không phải là tiền ảo vì giá trị của nó được cố định vào giá Nhân dân tệ chứ không phải được định giá theo thị trường như Bitcoin hay những đồng tiền ảo khác.
Theo Reuters đưa tin hôm 20/2, Thụy Điển – nước ít phụ thuộc vào tiền mặt nhất trên thế giới, cho biết họ đã bắt đầu thử nghiệm tiền kỹ thuật số e-krona. Theo ngân hàng trung ương Thụy điển (Riksbank), nếu e-krona được đưa vào lưu thông, nó sẽ được dùng để mô phỏng cho các hoạt động giao dịch ngân hàng hằng ngày như thanh toán, gửi tiền và rút tiền từ ví kỹ thuật số như ứng dụng điện thoại di động. Trước đó, Ngân hàng Trung ương Pháp cũng có kế hoạch thử nghiệm dự án đồng euro kỹ thuật số vào cuối quý đầu năm 2020.
Mới đây nhất, hôm 6/4, ngân hàng trung ương Hàn Quốc cho biết đã đưa ra một chương trình thí điểm để thử nghiệm đồng tiền kỹ thuật số từ tháng trước và sẽ kéo dài đến tháng 12 năm 2021. Chương trình 22 tháng này nhằm xác định các quy định kỹ thuật và pháp lý cần thiết để tạo và phát hành một loại tiền kỹ thuật số.
Những biến động kinh tế và tiền tệ gần đây cũng đã giúp một số tài sản kỹ thuật số khan hiếm như Bitcoin dần lấy lại giá trị, và những người ủng hộ thì tin rằng tiền điện tử là đồng tiền tương lai. Trong năm 2017, giá Bitcoin đã tăng vọt từ dưới 1.000 USD/BTC vào đầu năm lên khoảng 20.000 USD/BTC trong vòng 12 tháng, phần lớn được thúc đẩy bởi nhu cầu tăng từ những người mong muốn không bỏ lỡ cơ hội đầu tư vào đồng tiền điện tử lớn nhất thế giới này. Giới chuyên gia nhận định một điều tương tự có thể sắp xảy ra một lần nữa, mặc dù với những lý do hoàn toàn khác.
Tham khảo: Forbes
Thái Bích Phương
JPMorgan: Ngân hàng Việt Nam là kênh đầu tư hấp dẫn
Ngành ngân hàng của Việt Nam là kênh đầu tư rất hấp dẫn, vì ngành này đang tạo ra rất nhiều vốn và có tốc độ tăng trưởng khá nhanh.
Justin Mott | Bloomberg | Getty Images
Tốc độ tăng trưởng nhanh và lợi nhuận cao ngành ngân hàng Việt Nam đang tạo ra một cơ hội đầu tư cực kỳ hấp dẫn, Ông Harsh Modi, giám đốc mảng nghiên cứu tài chính của JPMorgan, nhận định.
Hệ thống ngân hàng của Việt Nam vừa có tốc độ tăng trưởng nhanh và vừa có lợi nhuận cao. Trường hợp này hiếm khi xảy ra ở các nền kinh tế khác. Chính vì vậy, các ngân hàng Việt Nam có thể duy trì tốc độ tăng trưởng cao mà không cần phải đầu tư thêm quá nhiều vốn trong một thời gian dài, ông Modi cho biết.
Vị chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng này đánh giá rằng, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu mà các ngân hàng ở Việt Nam tạo ra khá cao. Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận của các ngân hàng này thậm chí còn cao hơn mức tăng trưởng của các chỉ tiêu trên bảng cân đối kế toán.
Điều này có nghĩa là nếu xét về mặt lý thuyết thì các ngân hàng Việt Nam không cần phải huy động thêm vốn để tài trợ cho mức tăng trưởng hiện tại. Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn sẽ tiếp tục huy động vốn nhằm mục đích tăng tỷ lệ vốn cũng như đáp ứng các quy định pháp lý của Nhà nước.
Các nhà phân tích kỳ vọng rằng, các ngân hàng Việt Nam dưới sự hỗ trợ của JPMorgan sẽ mang lại một tỷ suất ROE từ 15% đến 21% trong hai năm tới khi công ty này bắt đầu đầu tư vào mảng này.
Hiện JPMorgan rất quan tâm đến Vietcombank, Techcombank và ACB.
Sự cải thiện các yếu tố kinh tế vĩ mô gần đây của Việt Nam đang góp phần mang đến các nhận định tích cực đối với ngành ngân hàng Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc nâng cao năng lực sản xuất đối với các ngành xuất khẩu đang giúp thu hút thêm nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, từ đó giúp cải thiện khả năng xuất khẩu và thặng dư tài khoản vãng lai trong vài năm tới cũng như đảm bảo thanh khoản trong nước ở mức hợp lý.
Việt Nam được đánh giá là đang hưởng lợi từ cuộc chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc mà cuộc chiến này đã và đang mang đến những sự thay đổi trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Những thị trường còn lại
Theo Ông Modi, có rất nhiều cơ hội đầu tư vào khu vực Đông Nam Á, nhưng mức độ rủi ro và tỷ suất sinh lợi ở mỗi thị trường lại có nhiều khác biệt.
JPMorgan nhìn chung rất thích các ngân hàng ở Indonesia, đặc biệt là rất quan tâm với Ngân hàng Bank Mandiri, Ngân hàng Bank Rakyat Indonesia và Ngân hàng Bank Central Asia.
Tại Thái Lan và Philippines, JP Morgan cũng để ý đến một số ngân hàng như Kasikornbank, Bangkok Bank, Metropolitan Bank, Trust Company và East West Banking Corp.
Khi nói về sự khác biệt trong việc đầu tư vào Việt Nam và các quốc gia khác, ông Modi nhận định rằng thời gian đầu tư vào các nước trong khu vực Đông Nam Á có lẽ sẽ ngắn hơn.
Do những giới hạn trong việc gia nhập thị trường khiến cho các nhà đầu tư muốn đầu tư dài hạn ở Việt Nam trong khi ở các nước khác có hệ thống tài chính tốt hơn thì các nhà đầu tư sẽ thích đầu tư ngắn hạn hơn.
Tại các thị trường Đông Nam Á có mối liên kết chặt chẽ với chuỗi cung ứng toàn cầu như Singapore, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam, thương mại vẫn là yếu tố rủi ro lớn nhất. Ông Modi giải thích thêm rủi ro kinh tế nằm ở việc các quốc gia này có thể sử dụng kết hợp các chính sách tài khóa, tiền tệ và công nghiệp tốt như thế nào để hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế và nâng cao năng suất nhằm gia tăng thu hút đầu tư.
Riêng đối với Indonesia và Philippines, các chính sách trong nước có mức độ rủi ro hơn vì tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này phụ thuộc chủ yếu vào những thay đổi trong các yếu tố trong nước, ví dụ như khả năng thanh khoản của nền kinh tế.
Nguồn CNBC
Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc sut mạnh, "bốc hơi" hơn 46 tỷ USD chỉ trong vòng 1 tháng Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 17 tháng do bất ổn thị trường đẩy đồng đô la Mỹ tăng. Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã giảm xuống mức thấp nhất trong 17 tháng do tác động toàn cầu của đại dịch Covid-19 gây ra sự sụt giảm giá tài sản toàn cầu và...