Không có dự án PPP nào ở Việt Nam theo đúng quy chế?
Trưởng Nhóm Công tác cơ sở hạ tầng của VBF cho rằng, tại Việt Nam hầu như không có dự án PPP nào theo đúng quy chế.
Chưa có dự án PPP thực sự?
Theo ông Tony Foster, Trưởng Nhóm Công tác cơ sở hạ tầng của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam 2018 ( VBF 2018), mặc dù có nhiều sự nhầm lẫn về tên gọi của PPP, song tại Việt Nam hầu như không có dự án PPP nào theo đúng Nghị định 15 và 63 của Chính phủ về quy chế cho dự án PPP.
Có sự nhầm lẫn liên quan đến tên gọi PPP mà thật ra dự án đó không quân theo Quy chế PPP. (Ảnh minh họa: KT)
Ông Tony Foster đánh giá, không có bất kỳ dự án PPP tuân thủ đúng theo quy chế đã được hoàn thành bởi các nhà tài trợ tư nhân hoặc là dự án được các ngân hàng tư nhân hỗ trợ tài chính.
Lý giải nguyên nhân khiến “không có các dự án PPP thật sự”, Trưởng Nhóm Công tác cơ sở hạ tầng chỉ rõ: Có rất nhiều lý do, trong đó, các quy định về dự án PPP rất phức tạp, không chỉ ở Việt Nam mà ở bất kỳ nơi nào trên thế giới.
Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của Nhà Nước đối với các dự án này có hạn, vì vậy chắc chắn sẽ phát sinh các vấn đề chính trị. Mặt khác, dự án PPP chỉ có thể bền vững nếu được thực hiện hiệu quả và công bằng. Điều này có nghĩa là phải xây dựng một đội ngũ chuyên gia là những người có thể quản lý chương trình.
Báo cáo của Bộ Kế hoạch và đầu tư về việc thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức hợp tác công tư (PPP) cho thấy, trong 20 năm qua, khoảng 200 dự án đã được cấp phép. Trong đó có 158 dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT) và hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT) trong lĩnh vực giao thông, 9 dự án BOT trong ngành điện, 5 dự án xử lý nước thải.
Video đang HOT
Do đó, ông Tony Foster cho rằng cần phải có chuyên môn cụ thể cho các dự án của từng ngành, lĩnh vực – đường bộ khác với đường sắt, và khác với các nhà máy nước thải,… và cho riêng Việt Nam.
Theo vị chuyên gia này, hiện nay các dự án PPP tại Việt Nam đang gặp nhiều vướng mắc như không có hướng dẫn hoặc cẩm nang hướng dẫn về việc làm thế nào để nhận được nguồn vốn hỗ trợ bù đắp thiếu hụt về tài chính nên các nhà đầu tư tư nhân và không biết làm thế nào để được hỗ trợ.
Nguồn vốn hỗ trợ bù đắp thiếu hụt về tài chính là yếu tố trung tâm của PPP. Việc không có các nguyên tắc cung cấp nguồn vốn hỗ trợ bù đắp thiếu hụt về tài chính khiến các doanh nghiệp không mặn mà lắm với hình thức đầu tư này, ông Tony nhận định.
Bàn về giải pháp để thúc đẩy đầu tư theo hình thức PPP, ông Ryu Hang Ha, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc cho rằng, các nhà đầu tư cần được cho phép có nhiều lựa chọn khác nhau để huy động vốn đầu tư.
Hiện nay, các quy định nghiêm ngặt đã trở thành trở ngại cho việc đầu tư. Ông Ryu Hang Ha đề nghị, cần hoàn thiện các cơ sở pháp lý để công nhận các phương thức huy động vốn khác nhau của doanh nghiệp tư nhân và “sự bảo đảm của chính phủ” để có thể giảm thiểu rủi ro của các nhà đầu tư.
Chia sẻ rủi ro
PPP cũng là một trong những nội dung được Hiệp hội Doanh nghiệp Anh Quốc tại Việt Nam đề cập khi phát biểu tại VBF 2018. Ông Kenneth Atkinson, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Anh Quốc tại Việt Nam cho biết, Vương quốc Anh là một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới trong quan hệ đối tác công tư và tích cực hỗ trợ Việt Nam trong quá trình phát triển chương trình PPP.
Tuy nhiên, ông Kenneth Atkinson nhắc đến một số vấn đề cần được giải quyết trước khi nguồn tài chính quốc tế có thể hỗ trợ chương trình PPP tại Việt Nam. Quan trọng nhất là việc cân bằng hợp lý các rủi ro; các nhà tài trợ nước ngoài cần đảm bảo những hiệu quả nhất định trong việc thực hiện dự án và nhận được những quyền lợi tương xứng để tránh những rủi ro không muốn có.
Theo đề xuất của Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (JCCI), cần quy định rõ hơn về các trường hợp áp dụng luật nước ngoài. Cụ thể điều 467 của nghị định 63 có quy định các hợp đồng có liên quan của dự án có thể áp dụng luật nước ngoài, nhưng lại không quy định rõ là có thể áp dụng luật nước ngoài đối với những hợp đồng mà một trong các bên ký kết là pháp nhân nước ngoài hay không.
Bên cạnh đó, cho phép sử dụng trọng tài bên ngoài Việt nam đối với toàn bộ các dự án hạ tầng bao gồm cả bất động sản (liên quan đến quy định về giải quyết tranh chấp). Điều 67 của nghị định 63 có quy định có thể sử dụng trọng tài bên ngoài Việt Nam, nhưng đối với các tranh chấp liên quan đến bất động sản thì lại quy định phải giải quyết tại tòa án Việt Nam theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, do vậy những tranh chấp phát sinh tại các dự án PPP liên quan đến xây dựng, kinh doanh thiết bị cơ sở hạ tầng có thể hiểu rộng ra là đều thuộc các dự án bất động sản, do vậy sẽ ảnh hưởng xấu đến việc thu xếp tài chính cho dự án từ các tổ chức tài chính nước ngoài, JCCI trình bày.
Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam cũng kiến nghị cho phép nhà đầu tư và doanh nghiệp dự án có quyền thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, quyền kinh doanh thiết bị dự án. Đồng thời, đề nghị Chính phủ Việt Nam phải chịu một mức độ rủi ro nhất định trong việc chuyển đổi tỷ giá (liên quan đến thanh toán đáo hạn)./.
Trần Ngọc/VOV.VN
Hoàn thiện chính sách quản lý tài chính các dự án PPP
Chính sách về đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) đã được Chính phủ hoàn thiện dần tiếp cận đến thông lệ quốc tế.
Bộ Tài chính bỏ quy định khống chế mức lãi suất tính toán trong phương án tài chính của các dự án PPP gắn liền với lãi suất trái phiếu chính phủ. Ảnh: Lê Tiên
Đồng thời, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành xây dựng Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư trình Chính phủ, Quốc hội xem xét thông qua trong năm 2019 để tạo hành lang pháp lý, khuyến khích các dự án đầu tư theo hình thức PPP. Với cơ sở trên, cơ chế quản lý các dự án PPP của Bộ Tài chính cũng được tiếp tục hoàn thiện.
Ngày 28/9/2018, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 88/2018/TT-BTC quy định quản lý tài chính đầu tư đối với các dự án PPP và chi phí lựa chọn nhà đầu tư (thay thế Thông tư số 55/2016/TT-BTC) có hiệu lực từ ngày 12/11/2018. Nội dung Thông tư số 88/2018/TT-BTC đã điều chỉnh theo hướng quy định các chỉ tiêu tài chính của dự án phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo động lực để thu hút đầu tư phát triển các dự án kết cấu hạ tầng theo hình thức PPP.
Thứ nhất, Thông tư đã bổ sung những nguồn thu - chi theo thông lệ quốc tế đối với các dự án PPP mà trước đây chúng ta chưa quy định như các khoản chi liên quan đến huy động vốn ngoài khoản lãi suất thông thường (chi phí bảo lãnh, phí cam kết, bảo hiểm tín dụng, môi giới), các nguồn thu bổ sung ngoài khoản thu chính từ phí/giá dịch vụ (thu quảng cáo, thu từ các hoạt động tài chính, lãi tiền gửi...).
Thứ hai, bỏ quy định khống chế mức lãi suất tính toán trong phương án tài chính của các dự án PPP gắn liền với mức lãi suất trái phiếu chính phủ. Theo đó, tại Khoản 2 Điều 14 của Thông tư quy định mức lãi suất tham khảo để cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi tham khảo theo nguyên tắc thị trường đảm bảo không quá mức lãi suất bình quân cho vay trung hạn, dài hạn của 3 ngân hàng thương mại: Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam; lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn phổ biến của hệ thống ngân hàng thương mại theo thông báo của Ngân hàng Nhà nước trên Cổng thông tin điện tử của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (nếu có); lãi suất vốn vay của các dự án tương tự (nếu có).
Đây là một trong những nội dung thay đổi cơ bản, phản ánh đúng nguyên tắc thị trường và chi phí thực tế của dự án. Mức lãi suất vốn vay trong hợp đồng dự án sẽ được xác định trên cơ sở hồ sơ dự thầu của nhà đầu tư được lựa chọn. Đối với trường hợp chỉ định nhà đầu tư, mức lãi suất trong hợp đồng dự án sẽ do cấp có thẩm quyền cho phép chỉ định nhà đầu tư chịu trách nhiệm quyết định, song không được quá các nguyên tắc nêu trên.
Thứ ba, khẳng định rõ lợi nhuận của nhà đầu tư cũng được hình thành theo nguyên tắc thị trường, thông qua đấu thầu giữa các nhà đầu tư. Các bộ, ngành có trách nhiệm ban hành khung lợi nhuận theo quy định tại Khoản 2 Điều 73 Nghị định số 63/2018/NĐ-CP; bổ sung quy định lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư được tính từ thời điểm dự án được cấp có thẩm quyền cho phép đi vào vận hành, khai thác để thống nhất trong việc tính toán, áp dụng.
Riêng đối với trường hợp chỉ định nhà đầu tư, để đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư, nội dung Thông tư quy định rõ cơ quan nhà nước có thẩm quyền trình người có thẩm quyền cho phép chỉ định nhà đầu tư quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư tối đa bằng mức lợi nhuận tối thiểu trong khung lợi nhuận do bộ, ngành ban hành.
Thứ tư, quy định về hồ sơ thanh toán vốn đầu tư của Nhà nước hỗ trợ dự án được sửa đổi theo hướng đơn giản hóa tối đa với trách nhiệm chính và duy nhất trong xác định giá trị khối lượng nhà đầu tư hoàn thành, việc đáp ứng các điều kiện giải ngân phần vốn nhà nước theo quy định là cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ năm, để đảm bảo hướng dẫn đầy đủ các nhiệm vụ Chính phủ giao tại Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, Thông tư cũng đã bổ sung hướng dẫn một số nội dung mới như: Lập kế hoạch đối với phần vốn thanh toán cho nhà đầu tư sử dụng nguồn chi thường xuyên và nguồn thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ công; xác định giá trị tài sản công tham gia trong dự án PPP.
Với việc sửa đổi một số nội dung cơ bản nhằm tách bạch chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước và quyền tự quyết trong tổ chức kinh doanh của nhà đầu tư, hy vọng sẽ tạo điều kiện thông thoáng hơn cho cả cơ quan nhà nước và nhà đầu tư trong triển khai các nội dung liên quan đến tài chính của dự án PPP, tạo điều kiện thu hút nhà đầu tư thực hiện các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng trong thời gian tới.
Bùi Việt Hưng
Theo baodauthau.vn
Đầu tư PPP: Doanh nghiệp ngoại muốn Việt Nam chịu một phần rủi ro về ngoại hối "Chúng tôi đã nghe đề cập nhiều lần về những rủi ro ngoại hối nhưng trên thực tế phải có một bên chấp nhận chịu những rủi ro này. Nếu các nhà đầu tư nước ngoài phải chịu, họ sẽ tính giá các rủi ro đó vào dự án khiến cho chi phí dự án tăng cao hơn và không mang tính kinh...