“Kho báu” chè Shan tuyết cổ thụ 70 tuổi nơi vùng cao bản Suối Lìn
Vườn chè Shan tuyết cổ thụ của gia đình ông Triệu Văn Cai, sinh năm 1957, dân tộc Dao Tiền, sinh sống ở bản Suối Lìn (xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La) là niềm tự hào của bà con dân tộc nơi đây khi những cây chè đã hơn 70 tuổi. Tuy nhiên, để gìn giữ được giống chè quý này ông Cai đã mất bao công sức.
Ông Triệu Văn Cai chia sẻ: Vườn chè shan tuyết cổ thụ được bố mẹ tôi trồng từ nhiều năm trước. Đến nay, những cây chè này cũng được hơn 70 năm tuổi. Thời gian trước vườn chè có hơn 40 cây, nhưng do vườn ở xa nhà, không có thời gian giám sát nên đã bị 1 số hộ chặt phá lấn chiếm để làm nương rẫy, giờ chỉ còn 20 cây. Sau đó, tôi nghĩ phải tìm cách nào đó để gìn giữ giống chè quý này.
“Giống chè Shan tuyết này được bố mẹ tôi mang từ rừng về trồng vừa để làm hàng rào sau nhà vừa để lấy búp đun nước uống. Trước kia, trồng chè chỉ với suy nghĩ để uống, chứ chưa nghĩ đến việc bán để kiếm thêm thu nhập. Năm 2011, gia đình tôi mới bắt đầu hái chè bán cho các tiểu thương trong huyện, nhưng cũng chỉ bán để kiếm chút ít tiền trang trải cuộc sống thường ngày. Tôi sợ hái nhiều quá sẽ làm cây chậm phát triển và héo úa, như vậy xót lắm”, ông Cai kể.
Vườn chè của gia đình ông Cai có 20 cây chè shan tuyết đã hơn 70 năm tuổi.
Hiện tại, cả bản Suối Lìn, xã Vân Hồ chỉ có mỗi gia đình ông Cai còn gìn giữ được cây chè cổ thụ với số lượng lớn nhất. Bởi trước đó, các hộ dân trong bản đều đào gốc bán cho các thương lái ở dưới xuôi đến thu mua làm cây cảnh. Vì họ nghĩ rằng để lại cây chè cũng không đem được lợi lộc gì, bán đi để lấy đất trồng cây hoa màu khác và có tiền tiêu. Nhưng đối với gia đình ông Cai thì nghĩ ngược lại, ông lên rừng chặt tre về rào xung quanh vườn chè, hàng ngày đều lên vườn phát quang bụi rậm để cây phát triển xanh tốt.
Ông Cai luôn ấp ủ trong lòng làm sao để gìn giữ những gốc chè shan tuyết cổ thụ này cho thế hệ con cháu.
Ông Cai thường cắt tỉa cành, để vườn chè shan tuyết ra lộc non nhiều.
Ông Cai cho biết: Nhiều thương lái ở Hà Nội đến tận nhà tôi trả hơn trăm triệu đồng để mua 20 gốc chè về làm cây cảnh nhưng tôi từ chối. Thấy vậy nhiều anh, em họ hàng và hàng xóm bảo tôi suy nghĩ lẩm cẩm, giữ chè cổ thụ để làm gì, đào gốc chè bán sẽ có 1 khoản tiền lớn trang trải cuộc sống và làm kinh tế. Nhưng tôi bỏ ngoài tai tất cả mọi chuyện, tôi chỉ nghĩ đơn giản vườn chè là do bố mẹ để lại nên cần phải gìn giữ cho con cháu sau này. Nghĩ là làm, hàng ngày tôi cùng vợ xuống vườn phát quang cỏ và bón phân chăm nom vườn chè để cây sinh trưởng cao lớn hơn.
Video đang HOT
Trước kia, người dân tộc Dao bản Suối Lìn lấy giống chè shan tuyết từ rừng về trồng làm hàng rào xung quang nhà.
Theo ông Cai, lá chè shan tuyết cổ thủ khi pha uống có vị ngon ngọt, càng pha đặc thì uống càng thích. Bạn bè, anh em họ hàng đến thăm nhà, ông đều dùng những búp chè shan tuyết cổ thụ đã qua chế biến thủ công và ai nấy đều tấm tắc khen ngon.
Không chỉ là người nặng lòng với cây chè, ông Cai còn là người rất am hiểu và có tay nghề chế biến chè rất giỏi.
Cách chế biến chè của ông rất đơn giản không cầu kỳ, ông hái chè về rồi nhóm lửa bỏ những búp chè tươi vào chảo gang xào lên. Khi chè chín, ông đổ vào giỏ tre, rồi tiếp tục hơ lửa thêm 10 phút để tạo mùi thơm cho chè. Sau đó, ông đựng vào hộp để uống dần hoặc làm quà biếu.
Không chỉ nặng lòng, gìn giữ chè shan tuyết, ông Cai còn có tay nghề rất giỏi về chế biến chè.
Ông Cai chia sẻ: Chè shan tuyết cổ thụ có vị thơm ngon, càng pha đặc thì uống càng ngon.
“Khi tuổi ngày càng cao, tôi luôn đau đáu trong lòng, mong rằng con trai tôi sẽ thay tôi chăm sóc vườn chè Shan tuyết cổ thụ này. Bởi, chè Shan Tuyết là món quà mà thiên nhiên dành tặng cho đồng bào dân tộc Dao chúng tôi, nên cần được thế sau gìn giữ. Hy vọng, trong tương lai không xa, sản phẩm chè Shan Tuyết cổ thụ ở bản Suối Lìn sẽ được khách hàng trong tỉnh và cả nước biết đến – ông Cai bộc bạch.
Thời gian rảnh rỗi, ông Cai đều lên vườn hái chè về chế biến, tích trữ uống dần.
Theo Danviet
Độc đáo kho thóc của người Dao Tiền Suối Lìn
Kho lúa là nơi được cất giữ, bảo quản thóc, ngô...Tuy nhiên, ở bản Suối Lìn (xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La), đồng bào dân tộc Dao Tiền vẫn còn gìn giữ được những nhà kho truyền thống với kiểu thiết kế riêng biệt.
Trao đổi với PV Dân Việt, ông Triệu Văn Cai, bản Suối Lìn (xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La), chia sẻ: Bản chúng tôi có 156 hộ, trong đó trên 50% gia đình còn gìn giữ được nhà kho thóc kiểu ngày xưa. Nhà kho chứa thóc này có từ thời xa xưa, được ông bà tổ tiên truyền lại cho con cháu dân tộc Dao Tiền chúng tôi.
Nhà kho thóc của đồng bào dân tộc Dao Tiền giống như nhà sàn thu nhỏ của dân tộc Thái.
Theo ông Cai, nhà nào có nương có ruộng đều dựng 1 nhà kho dự trữ thóc, tùy theo diện tích trồng lúa của mỗi gia đình nhiều hay ít để làm nhà kho chứa đựng lương thực cho phù hợp. Thóc chứa trong kho quanh năm suốt tháng không lo bị ẩm mốc, khi nào hết gạo thì chúng tôi dùng sọt, chậu nhôm múc thóc từ kho ra để xay xát lấy gạo phục vụ cuộc sống.
Thoạt nhìn, nhà kho của dân tộc Dao Tiền bản Suối Lìn có hình dáng như ngôi nhà sàn thu nhỏ của dân tộc Thái. Tùy nhà kho lớn hay nhỏ, sàn cao từ 1,5 - 2 m; rộng từ 1,5 - 2,2 m; dài khoảng 2,5 m, cao khoảng 1,6 m. Mái nhà kho dốc xuôi được thiết kết khác mái nhà ở với mục đích chống ẩm, côn trùng và chống cháy. Kho thường được dựng trên 4 cột gỗ chịu lực, được làm bằng gỗ Duối, Muồng đen, Xoan, Dâu, là những loại gỗ hạn chế được mối, mọt.
Ông Cai dùng thang là một thân cây được xẻ dọc làm thang bắc lên nhà kho, để tiện lợi cho việc lấy thóc.
Nhà kho thóc được đồng bào dân tộc Dao Tiền dùng nguyên liệu chính là gỗ, tre, nứa, gianh... khai thác từ núi rừng là chủ yếu. Sàn được lót bởi nhiều lớp tre đan hoặc bương đan, vách vây kín thành vòng tròn bằng những tấm đan lớn. Nhà kho thường chỉ có một cửa nhỏ vừa đủ thân người được cài bằng cửa sập kín. Khi muốn đưa thóc vào hay lấy ra, đồng bào dùng một cái thang nhỏ để leo lên. Sau khi làm xong việc, họ gỡ thang ra và gác lên giàn bên cạnh.
Theo ông Triệu Văn Cai, để dựng hoàn thiện 1 nhà kho thóc, phải mất nhiều thời gian nhất là vào rừng khai thác vật liệu. Nếu có vật liệu sẵn thì dựng rất nhanh chỉ mất hơn 1 ngày là có thể hoàn thiện nhà kho. Hiện giờ đất nước phát triển, người dân chúng tôi đổ cột nhà kho bằng bê tông, mái gianh nhà kho được thay bằng mái lợp tôn hay tấm lợp Fibro xi măng để cho chắc chắn, không phải vất vả vào rừng tìm kiếm gỗ, cỏ gianh như trước nữa.
Đối với đồng bào dân tộc Dao chúng tôi, kho thóc truyền thống này là một niềm tự hào, là bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. Do đó, chúng tôi nghĩ cần được bảo tồn và phát huy trong tương lai...
Nhà kho của dân tộc Dao thường chỉ có một cửa nhỏ dạng cửa sổ, vừa đủ thân người ra, vào và được cài bằng cửa sập kín.
Để tránh thiệt hại do hỏa hoạn, bảo đảm nguồn lương thực đến mùa giáp hạt và giống má cho mùa sau, các nhà kho của đồng bào Dao Tiền bao giờ cũng được dựng cách xa bản. Để đề phòng loài gặm nhấm, đồng bào Dao Tiền còn đặt những tấm ván hoặc tre đan hình vuông chừng 80cmx80cm được ngăn cách giữa đầu cột với những thanh gỗ tròn nằm ngang các đầu cột để đỡ sàn nhà. Do đó, nếu chuột có leo lên theo các cột thì cũng không vượt qua được tấm ván hình vuông này để vào nhà kho từ phía dưới sàn.
Để đề phòng loài gặm nhấm, đồng bào Dao Tiền còn đặt những tấm ván hoặc tre đan hình vuông chừng 80cmx80cm được ngăn cách giữa đầu cột với những thanh gỗ tròn nằm ngang các đầu cột để đỡ sàn nhà.
Kho thóc của đồng bào dân tộc Dao dựng lên nhằm mục đích chống chuột.
Kho thóc từ lâu là hình ảnh đã ăn sâu vào tiềm thức đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Dao Tiền, đó là hình ảnh tượng trưng cho sự no ấm. Vì vậy, bà con dân tộc Dao luôn xem kho thóc là tài sản rất quan trọng. Đồng bào dân tộc Dao thường có những nghi lễ như thờ hồn lúa, ăn cơm mới, ăn lúa rẫy. Khi cho lúa vào kho hay ăn mừng cơm mới, đồng bào không quên cúng tạ ơn Mẹ lúa, hồn lúa đang trú ngụ nơi nhà kho để cầu mong no đủ, bình an cho con cháu.
Xưa kia, nhà kho được đồng bào Dao Tiền dựng bằng gỗ, tre, nứa, gianh. Nay nguyên vật liệu được thay thế bằng cột bê tông, mái lợp tôn, ngói, fibro xi măng để bảo đảm chắc chắn.
Kho thóc của bản Suối Lìn tồn tại từ bao đời nay, được hình thành nhằm bảo đảm cuộc sống ấm no của đồng bào dân tộc miền núi trong điều kiện nền kinh tế tự túc tự cấp. Đây cũng là một loại hình hậu cần truyền thống dựa vào cộng đồng, để khi cần thiết sẽ như là một phương án tại chỗ ứng phó linh hoạt, hiệu quả đối với thiên tai, hỏa hoạn.
Theo Danviet
Tây Bắc hết cảnh "vác rá" đi xin lương thực cứu đói Nghĩ đến Tây Bắc là người ta nghĩ đến đói nghèo, nhất là những dịp tết đến, xuân về - những kỳ giáp hạt. Tuy nhiên, vài năm gần đây, các tỉnh Tây Bắc đã chủ động gạo cứu đói cho người dân, không cần phải "vác rá" đi xin Trung ương như trước. Không để ai thiếu đói Trong niềm vui với...