Keen Folk Đế chế thông minh và liều lĩnh nhất DotA 2
Bộ tộc Keen Folk dùng trí thông minh của mình để tạo ra các cỗ máy chiến đấu khủng khiếp trong DotA 2.Keen Folk là một bộ tộc tồn tại trong thế giới DotA 2. Họ thường rất dễ nhận ra với hình dáng giống những người lùn, bé người và thường có râu. Họ là những người công khai coi khinh ma thuật và cho rằng khoa học công nghệ mới là những phát minh vĩ đại nhờ trí óc thông minh có thể đánh bại hoàn toàn ma thuật.
Cũng như do quá bảo thủ như thế mà đôi khi họ phải chịu những hậu quả không thể dự đoán trước. Có vẻ, tộc Keen và Olgodi trong DotA 2 luôn có sự cạnh tranh nhau trong một thời gian rất dài. Tộc này bao gồm 5 thành viên: Tinker, Clockwerk, Sniper, Gyro và Alchemist. (Alchemist là cái thằng bé bé ngồi trên. Còn cái con to đùng là thú cưỡi của nó).
Boush the Tinker
“Ready, willing and fully enabled!”.
(Sẵn sàng, quyết tâm và đầy đủ để hành động).
Từng là nhân vật chủ chốt cho các nghiên cứu về luật lệ, pháp tắc của tự nhiên, Boush the Tinker đã thành lập một phòng thí nghiệm dưới lòng đất của Violet Plateau luôn mịt mù sương khói, lãnh đạo các cuộc thí nghiệm về quy luật vận động của tự nhiên. Trong khi khinh bỉ các Pháp Sư vì đã mang lại những thương tổn cho thế giới, Boush cùng các Tinker khác trong phòng thí nghiệm đã ngạo mạn và mở ra một cánh cổng (portal), đầu bên kia của cánh cổng ấy là một lĩnh vực khác vượt xa sự nhận thức của người phàm, để rồi phải nhận lấy những cơn ác mộng cho chính họ.
Thế nhưng cái giá phải trả quá đắt, phòng thí nghiệm bị nổ tan tành. Các Tinker cũng bị giết chết trong vụ nổ đó ngoại trừ Boush, nhờ một phép màu nào đó (cầm được Roshan chứ có gì đâu) đã trốn thoát. Nhờ vào tài trí và những công cụ máy móc mà ông mang theo, đồng thời cũng trở thành gã Tinker còn sống sót duy nhất sau thảm họa tại Violet Plateau.
Bản chất coi khinh ma thuật cũng như tin vào các thiết kế của mình mới là nhất. Hắn coi khinh tất cả. Kể cả tộc Keen cũng như các kẻ sử dụng ma thuật khác.
- “Rattletrap, all your parts are out of stock!” – (Rattletrap, các bộ phận của mi đều không có sẵn để thay thế). Nói với Clock.
- “Letting me out of your sight was your first mistake, Sniper!” – (Để ta thoát khỏi tầm mắt của mi là sai lầm đầu tiên, Sniper). Nói với Sniper.
- “Gyro, that craft of yours has made you dizzy” – (Gyro, cái thứ mi làm ra đã làm mi mất phương hướng) – Nói với Gyro.
- “What sort of loon believes in Alchemy?” – ( Giờ này còn thằng ngốc tin vào thuật giả kim sao?). Nói với Alchemist.
- “Science: One. Nature’s Prophet: Nothing!” – (Khoa học: Số một. Nature’s Prophet: Vô nghĩa). Hoặc “Nature’s profit, your loss!” – (Phế vật của thiên nhiên, mi thua rồi). Nói với Nature’s Prophet.
- “Warlock, you should put down your spell book and pick up a textbook!” – (Warlock, mi nên vứt bỏ sách phép và cầm sách giáo khoa đi). Nói với Warlock.
Kardel Sharpeye the Sniper
“Why am I smiling? This is what trigger-happy looks like”.
Video đang HOT
(Tại sao ta cười ư? Nó là cái giống như tiếng súng hạnh phúc thôi).
Kardel Sharpeye sinh ra tại một nơi heo hút nằm sâu trong thung lũng núi Knollen. Tại đây, từ thưở xa xưa, cư dân ở đây đã sinh sống bằng cách săn bắn các sinh vật kỳ quái, thứ được gọi là Steepstalker, thường bò ngang qua các vách đá phía trên thông làng của họ. Họ giết chúng từ xa, sau đó thu thập thi thể tại nơi mà chúng rơi xuống.
Sharpeye là một trong số những xạ thủ giỏi nhất của cái bộ tộc kỳ lạ ấy, đối với hắn, súng đạn tựa như là một phần của cơ thể, và việc nhắm bắn cũng chỉ đơn giản như một cái chạm nhẹ.
Tuy vậy, Kardel Sharpeye the Sniper đã phải rời khỏi quê hương cùng các thân nhân, vì bị nguyền rủa bởi chính chính kỹ thuật bắn của mình. Và, hắn sẽ không được chào đón trở về, cho đến khi phần còn lại của lời tiên tri được thực hiện. Hắn sẽ trở thành một nhân vật vĩ đại trên chiến trường. Hắn dùng súng nên thường rất khinh thường những hero sử dụng “vũ khí thô sơ” (Cung và dao kiếm). Nên mỗi khi giết được một hero như này, hắn luôn cười tỏ ra khinh thường đối thủ:
- “Oh, feather bullets!” – (Ô. Đạn lông chim). Hoặc “Heh, crummiest gun I’ve ever seen” – (He he. Thứ vũ khí hạ đẳng nhất mà ta từng thấy). Nói sau khi giết một hero dùng Cung.
- “You pull a knife, I pull a gun” – (Mi rút dao, ta rút súng). Hoặc “Inconceivable!” – (đùa anh à?). Nói sau khi giết được một hero dùng dao hoặc kiếm.
“Some assembly required”.
“Các bộ phận đã được lắp ráp”.
Rattletrap, tương tự như hai người họ hàng xa Tinker và Sniper, cùng rất nhiều những đồng bào khác cũng thuộc tộc Keen Folk, đã tự bù đắp cho cái vóc dáng nhỏ bé của mình bằng trí tuệ. Là cháu nội của một người thợ sửa đồng hồ nhưng hắn đã thực sự thay đổi khi cho tới khi một cuộc chiến tranh kéo tới từ phía bên kia núi, phá hủy các ngôi làng và những cư dân vô tội của nó.
Người thợ đồng hồ đáng thương đó tự trách bản thân vì những công cụ của mình đã không có chút hữu dụng trong chiến đấu, và Rattletrap cũng không bao giờ bào chữa. Sau khi mai táng cha già trong đống đổ nát của thông làng, Rattletrap bắt đầu tiến hành công cuộc cải tạo, biến chính mình trở thành cỗ máy chiến tranh mạnh mẽ nhất mà xưa nay chưa từng có.
Hắn thề, sẽ không bao giờ bị tấn công khi chưa kịp phòng bị nữa, bằng cách sử dụng trí tuệ của mình để lắp ráp ra một bộ áo giáp Clockwerk hùng mạnh chạy bằng dây cót, thứ sẽ khiến cho tất cả những gã Kỵ sĩ đến từ xứ khác trông như những tên hề trong cái ống lon bằng thiếc. Có lẽ do cuộc sống của hắn không rời khỏi căn nhà cho đến khi chiến tranh tàn phá. Nên hắn chỉ nhớ tới nhân vật họ hàng của mình là Sniper và Tinker. Hắn luôn nhắc tới 2 người này dù trong lúc tấn công, lúc giết hoặc bị giết, lúc di chuyển hay là cùng phe.
- “Tinker, prepare for repairs” – (Tinker, chuẩn bị sửa chữa đi).
- “Who sniped who?” – ( Ai bắn ai đây Sniper).
- Một hero khác không cùng máu mủ mà hắn nhắc tới là một kẻ dùng hook. Đó là chàng béo Butcher.
- “Like my hook, Pudge?” – (Thích cái móc của ta không, Pudge?). Nói khi hook trúng Butcher.
Theo GameK
Tộc Oglodi Một trong những đế chế hùng mạnh của DotA 2 (Phần cuối)
Hai thành viên còn lại của tộc Oglodi lần này còn lại là Lion - the Demon Witch và N'aix - Lifestealer.
Lion, the Demon Witch
"To Hell and back". (Tới địa ngục và trở lại).
Từng được gọi là Grandmaster trong nghệ thuật Demon Witch cổ xưa và bí hiểm. Demon Witch tức là những Phù Thủy sử dụng các ma thuật liên quan đến Ác Ma. Bản chất của bọn họ không tà ác, thậm chí bọn họ còn có thể điều khiển Ác Ma để chống lại giống loài của chúng. Lion đã cùng vớinhững người anh em của mình chiến đấu cho ánh sáng và lẽ phải.
Nhưng do phải thường xuyên giao tiếp với những thứ tà ác như vậy đã khiến các Demon Witch rất dễ bị &'thoái hóa biến chất' và Lion cũng không phải ngoại lệ. Sau khi phạm phải những tội lỗi, linh hồn của Lion bị tổn thương sâu sắc và gã ác ma nọ ngay tức khắc liền từ bỏ hắn. Sau đó, cũng chính gã ác ma này đã thực hiện một cuộc giao dịch có lợi hơn với địch nhân của chính hắn.
Trong cơn giận dữ, Lion đuổi theo con ác ma tới tận Địa Ngục, vặn nát nó, xé nó ra thành từng mảnh nhỏ, rồi chiếm lấy cánh tay của con ác ma lắp cho chính mình. Hắn trở thành Demonoplasty (một hình thái dung hợp với quỷ) và trở nên điên cuồng khi từ địa ngục trở về. Hắn không châm trọc ai mấy khi giết chết họ trừ một kẻ là Witch Doctor.
- "All we need now is a wardrobe" - (Tất cả những gì chúng ta cần bây giờ là một cái tủ quần áo).
Hắn đặc biệt ghét sự phản bội.
- "When the demon betrayed me, I took its very arm. Imagine what I'll do to a mere hero." (Khi con quỷ phản bội ta, ta đã lấy cánh tay của nó. Thử tưởng tượng ta sẽ làm gì với một hero).
- "Betray me, and I'll chase you into Hell." (Phản bội ta và ta sẽ truy đuổi mi tới tận địa ngục).
N'aix the Lifestealer
"Lives for the taking". (Sống để bị cướp đi).
Là một sinh vật ăn nói lắp bắp, với cái tên N'aix. Nó bị the Vile Council nguyền rủa, phải chịu một cuộc sống dài lâu vô cùng để nhận lấy càng nhiều hình phạt càng tốt. Đây là sự trừng trị cho cái tội ăn cắp và lừa gạt của nó. Năm này qua năm khác, gông xiềng đeo trên người N'aix đã bị ăn mòn đến mức không còn hình dáng, tư duy của nó cùng không còn tỉnh táo, N'aix đã hoàn toàn quên mất những sự tình trước kia, cũng không còn muốn chạy trốn nữa.
Thế rồi một ngày, hắn bị bạn tù, một gã Pháp sư với nội tâm bị chất đầy bởi lòng thù hận ở hầm ngục của Devarque yếm bùa Infestion với mục đích biến N'aix trở thành công cụ để hắn trốn chạy. Nhưng hoàn toàn ngược lại những gì gã Pháp sư kia mong muốn. N'aix bừng tỉnh từ cơn mê với một tình trạng điên cuồng và chỉ nghe theo một âm thanh vang vọng từ trong đầu óc của nó khiến nó phải chạy trốn.
Hiện tại, Lifestealer vẫn đang mang theo những chiếc xiềng xích đã bị hủy hoại từ lâu nọ, tựa hồ muốn nói cho cả thế giới rằng không ai đủ sức để giam cầm hắn. Nhưng đồng thời, ở sâu tận trong lòng, dường như hắn vẫn cho rằng mình là một phạm nhân. Hai ý thức cùng tồn tại trong một thân thể - một sinh vật không tên hiểm ác xảo quyệt và một thanh âm của Ông Chủ luôn cho nó cái cớ hành động.
Các thông tin bên lề của N'aix
Lifestealer fun name trong DotA 2 là Gollum, một sinh vật bị nguyền rủa trong tác phẩm "The Lord of the Rings". Điều này hoàn toàn giống với N'aix vì hắn luôn tồn tại hai tính cách nửa muốn phục vụ cho Frodo nửa muốn chiếm lại cái nhẫn mà Frodo đang giữ.
Trong DotA 2, hắn cố gắng ăn cắp chiếc nhẫn của hoàng tử Arthas, Death Knight và Lich King hùng mạnh nhất trong suốt lịch sử. Đó có lẽ đấy cũng chính là lí do hắn bị giam giữ.
Hắn được gọi là Oglodi bởi BristleBack
- "The Oglodi, they don't die easy, I will give em that" - (Người tộc Oglodi, chúng không bao giờ chết dễ dàng, ta mang cho chúng điều đó).
Một vài câu nói khi hắn giết được một địch thủ:
- "Pudge, so much life to steal" - (Pudge, quá nhiều sinh mệnh để ăn cắp).
- "Dirge, your life isn't worth a song" - (Dirge, cuộc sống của mi chẳng đáng một bài hát).
- "Oh, Puck, I wanted to tear your wings off while you were still alive" - (Oh Puck, ta đã muốn xé nát đôi cánh của mi trong khi mi còn đang sống).
- "Oh Axe, so full of life: Delicious!" - (Oh, Axe, sinh mệnh tràn đầy: Ngon tuyệt).
- "Nature's Prophet...bleh...your life tastes like sap!" - ( Nature's Prophet, bleh... máu của mi có vị như nhựa cây vậy).
- "Tidehunter...I love a bit of raw fish now and again" - (Tidehunter, ta rất thích ăn sushi cá tươi bây giờ).
- "Lich, stealing your life gave me an ice headache!" - (Lich, lấy sinh mệnh của mi làm ta đau đầu quá).
- "Mmm, Viper...tastes like chicken" - (Viper có vị như thịt gà). Câu này có nguyên nhân là khi ăn rắn, mọi người hay bảo thịt rắn có vị như thịt gà.
Đặc biệt khi hắn sử dụng Infest lên một Hero hắn sẽ nói câu
- "Thanks for the ride" - (Cám ơn vì cho quá giang).
- "Mind if I join you" - (Có phiền không nếu ta tham gia với cậu?).
Theo GameK
Cốt truyện DotA 2: Mối liên hệ giữa các Heroes (phần 3) Mangix Brewmaster, Chaos Knight, Ezalor là những Hero DotA 2 được nhắc tới trong bài viết này. Mangix Brewmaster là một bán thần và Elementalist Thunderkeg, bây giờ là Storm Spirit, sau khi hòa làm một với vị thần bão tố, cụ thể là Raijin. Cả hai đều sống ở dãy núi Wailing (Núi Than Thở cạnh Hồ Than Thở ở Da Lat...