Hóa ra không phải ai cũng biết cách trồng thứ cây có bạt ngàn trên rừng, trồng keo thế nào cho đúng?
Trước một số thông tin cho rằng việc phát triển diện tích trồng keo ở một số địa phương hiệu quả kinh tế không cao, lại gián tiếp gây ra tình trạng sạt lở đất, PGS. TS.Phí Hồng Hải, Phó Giám đốc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam cho rằng, nếu trồng đúng kỹ thuật, ở nơi lập địa phù hợp, cây keo sẽ “nhả vàng”.
Cả nước đã có 2,2 triệu ha trồng keo
Theo PGS. TS.Phí Hồng Hải, Phó Giám đốc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, hiện, diện tích rừng trồng keo trên cả nước đã đạt trên 2,2 triệu ha, chiếm khoảng 60% tổng diện tích 3,69 triệu ha rừng trồng sản xuất của cả nước.
Trong đó, keo tai tượng, keo lá tràm, keo lai giữa 2 loài này và keo lá liềm đã được xác định là những loài cây trồng rừng chủ lực cho vùng thấp, nơi có độ cao so với mức nước biển dưới 700m.
“Các loài keo này đã khẳng định vai trò quan trọng trong phủ xanh đất trống đồi núi trọc, cải tạo đất, chống xói mòn, chống cát bay, cung cấp nguồn nguyên liệu chính cho ngành công nghiệp chế biến gỗ và xuất khẩu lâm sản ở nước ta. Rừng trồng keo đã mang lại hiệu quả kinh tế và góp phần xóa đói giảm nghèo ở các khu vực miền núi – PGS.TS Phí Hồng Hải nhấn mạnh.
Tuy nhiên, theo chuyên gia ngành lâm nghiệp, việc phát triển cây keo một cách ồ ạt thiếu quy hoạch, sử dụng giống và trồng trên những lập địa không phù hợp, kỹ thuật canh tác không bền vững dẫn đến hiệu quả và giá trị kinh tế, môi trường của rừng keo thấp, từ đó dẫn đến những nhận thức sai lệch về vai trò của cây Keo.
Ông Hải nêu một thực tế là, hiện nay, việc quy hoạch vùng trồng các loài keo ở một số địa phương còn chưa chi tiết, rõ ràng, không bám sát yêu cầu lập địa của các loài keo, do đó vẫn quy hoạch hoặc vẫn cho phép trồng rừng keo ở những lập địa có điều kiện khí hậu và đất không thích hợp, nơi có độ cao so với mực nước biển trên 700m, độ dốc cao, nơi thường xuyên có gió xoáy và gió bão trên cấp 8. Các hộ dân thì trồng tự phát, chỗ nào có đất là trồng.
Chính vì vậy rừng keo sinh trưởng kém, ảnh hưởng lớn tới hiệu quả kinh tế, dễ bị đổ gãy, gây sạt lở đất.
Gỗ keo được các doanh nghiệp sử dụng để làm ván ghép thanh, xuất khẩu sang Hàn Quốc, Malaysia,…
Trồng keo thế nào cho đúng?
Theo PGS.TS Phí Hồng Hải, trong rừng trồng, giống là yếu tố vô cùng quan trọng quyết định năng suất và chất lượng rừng trồng.
Giống đã góp phần tăng năng suất trung bình của rừng trồng keo ở nước ta từ 10m3/ha/năm lên 17-19m3/ha/năm trong những năm gần đây. Đến nay Bộ NNPTNT đã công nhận hàng chục giống cho các loài keo.
Video đang HOT
Tuy vậy, số lượng giống sử dụng phổ biến trong sản xuất còn hạn chế, chuyển giao giống mới còn chậm và thời hạn sử dụng một số giống quá lâu (không trẻ hóa), dẫn tới thoái hóa giống, giảm chất lượng sinh lý làm ảnh hưởng tới năng suất và chất lượng rừng trồng.
Nhiều tổ chức và cá nhân vẫn coi giống tiến bộ kỹ thuật hay giống quốc gia đều có thể trồng bất kỳ lập địa nào, nên sử dụng chưa đúng giống cho lập địa trồng rừng của mình.
Ngoài ra, sử dụng cây hom để trồng rừng hiện vẫn rất phổ biến. Cây hom thường có hệ rễ bàng, không có rễ cọc, do đó cây dễ gẫy đổ khi có gió bão. Trong khi cây keo nuôi cấy mô có chất lượng sinh lý tốt hơn, cây có rễ cọc chắc chắn đồng thời sạch bệnh hơn cây hom.
Chính vì vậy cây mô thường có thân thẳng, ít cành nhánh và khả năng chống chịu gió bão tốt.
“Các tổ chức và cá nhân trồng rừng keo cần lưu ý sử dụng đúng giống phù hợp với điều kiện lập địa của mình và nên sử dụng giống cây mô để trồng rừng mang lại hiệu quả cao. Các cơ quan quản lý cũng cần quản lý chặt chẽ chất lượng giống cây lâm nghiệp và có chính sách hỗ trợ hơn nữa để phát triển rừng trồng bằng giống nuôi cây mô” – ông Hải đề xuất.
Muốn rừng trồng keo phát triển hiệu quả, cần chọn đúng lập địa cho cây keo, vùng thường xuyên có gió xoáy và gió bão trên cấp 8 không phù hợp cho các loài keo.
Cũng theo ông Hải, một yếu tố khác ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng rừng là các biện pháp kỹ thuật thâm canh rừng trồng.
Rất nhiều hộ nông dân trồng keo ở nước thực hiện theo phương thức trồng rừng quảng canh, trồng mật độ dày (thường trên 2.000 cây/ha), không chăm sóc nuôi dưỡng.
Với mật độ dày, rừng trồng thường có đường kính nhỏ, thảm thực vật dưới tán rừng sẽ không thể phát triển, làm giảm khả năng giữ nước, chống xói mòn và cũng có thể gây ra hiện tượng sạt lở đất ở những lập địa có độ dốc cao.
Việc phát dọn sạch thực bì và đốt trước khi trồng rừng hiện cũng rất phổ biến ở nhiều địa phương, dẫn tới ô nhiễm môi trường, tăng xói mòn đất, về lâu dài sẽ làm suy thoái đất đai canh tác.
Một điều đáng quan tâm nữa là, hầu hết những người tham gia trồng rừng bằng cây keo chỉ với mục đích sau khi trồng được 5-6 năm, thậm chí 4 năm đã chặt hết để bán lại cây cho các doanh nghiệp làm nguyên liệu giấy hoặc xuất khẩu gỗ dăm, vừa khai thác kiệt dinh dưỡng đất, sản lượng gỗ xẻ ít, kém hiệu quả kinh tế.
Do vậy, để phát triển bền vững, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người trồng rừng keo, chuyên gia ngành lâm nghiệp khuyến cáo, cần chọn đúng lập địa cho cây keo. Vùng thường xuyên có gió xoáy và gió bão trên cấp 8 không phù hợp cho các loài keo.
Sử dụng giống phù hợp cho từng điều kiên lập địa, sử dụng cây giống chất lượng tốt; nên ưu tiên sử dụng giống từ nuôi cấy mô tế bào. Thực hiện tốt việc quản lý lập địa. Đó là hạn chế đốt vật liệu hữu cơ sau khai thác.
Sử dụng phân bón hợp lý cho rừng trồng keo. Cây keo có khả năng cố định đạm nên cần sử dụng phân bón nhiều lân để tăng cường hoạt động cố định đạm của cây. Hạn chế cày xới đất mặt nhất là trên diện tích đất dốc gây xói mòn đất, giảm khả năng giữ nước.
Trồng đúng mật độ: 1300-1600 cây/ha là hợp lý; không nên trồng dày quá. Áp dụng tỉa thân, tỉa cành, tỉa thưa đúng kỹ thuật để tạo rừng gỗ lớn có chất lượng cao.
Tăng luân kỳ kinh doanh rừng, hợp lý nhất từ 7-12 năm để đạt được hiệu quả kinh tế cao, tạo gỗ lớn, tăng khả năng cải thiện môi trường của rừng keo.
Áp dụng khai thác tác động thấp, như duy trì, bảo dưỡng hệ thống đường lâm sinh đúng kỹ thuật; hạn chế mở đường mới khi khai thác; mở đường đúng kỹ thuật, nhất là hệ thống thoát nước, tránh dồn ứ nước tạo dòng chảy gây xói mòn rãnh lớn có nguy cơ sạt lở, xói mòn cao.
Vào dự án khuyến nông, người chăn nuôi khấm khá
Giai đoạn 2019-2021, Trung tâm Khuyến nông quốc gia (TTKNQG) đã trình Bộ NNPTNT phê duyệt và hướng dẫn triển khai 8 dự án về phát triển chăn nuôi lợn, với tổng quy mô hàng chục nghìn con.
Các dự án đã ứng dụng các biện pháp kỹ thuật mới, đàn lợn phát triển tốt, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn nuôi.
Nhiều mô hình khuyến nông hiệu quả
Dự án "Xây dựng mô hình chăn nuôi lợn hương, lợn Táp Ná để nâng cao sinh kế cho đồng bào dân tộc miền núi" được TTKNQG triển khai giai đoạn 2020-2022 tại tỉnh Cao Bằng với quy mô 198 lợn nái và 250 lợn thịt.
Bà Hạ Thúy Hạnh - Phó Giám đốc TTKNQG cho biết, thông qua thực hiện dự án này, số lợn con/lứa/năm trung bình tăng lên đạt 12,5 - 12,7; tuổi đẻ lứa đầu được giữ ổn định từ 321-330 ngày. "Mô hình đã góp phần giúp bà con chăn nuôi phát triển đàn lợn bản địa chất lượng cao tại địa phương, phát huy lợi thế sẵn có góp phần xóa đói giảm nghèo" - bà Hạnh thông tin.
Từ kết quả của mô hình này, nhiều hộ chăn nuôi ở huyện Hà Quảng (Cao Bằng) đã mạnh dạn đầu tư và áp dụng các biện pháp kỹ thuật của dự án để phát triển chăn nuôi. Cụ thể, từ năm 2020-2021 có 28 hộ ngoài mô hình mạnh dạn đầu tư chăn nuôi lợn bản địa, giá bán lợn thường gấp 2 đến 3 lần so với lợn lai.
Cán bộ khuyến nông Trung tâm Khuyến nông tỉnh Tuyên Quang bàn giao con giống cho hộ tham gia mô hình. Ảnh: T.L
Bà Hạ Thúy Hạnh - Phó Giám đốc TTKNQG cho rằng, lĩnh vực chăn nuôi đang đối diện với rất nhiều khó khăn, nhất là giá các loại vật tư đầu vào, thức ăn chăn nuôi tăng cao, trong khi giá bán sản phẩm chăn nuôi không tăng. Dịch tả lợn châu Phi vẫn diễn biến hết sức phức tạp, gây thiệt hại rất lớn cho người sản xuất...
Do đó, việc thực hiện chăn nuôi an toàn sinh học được xem là giải pháp tối ưu, tiết kiệm và hiệu quả nhất giúp hạn chế dịch bệnh, bảo vệ đàn vật nuôi.
Bà Đàm Thị Thơ (ở xóm Bản Giàng, thị trấn Xuân Hòa, huyện Hà Quảng) chia sẻ: "Lợn Táp Ná là giống lợn bản địa, có chất lượng thịt thơm ngon mang lại giá trị kinh tế cao, luôn được người tiêu dùng ưa chuộng mặc dù giá bán cao hơn so với lợn lai. Khi tham gia dự án, được cán bộ khuyến nông hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, phòng chống dịch bệnh nên chúng tôi rất tự tin phát triển chăn nuôi".
Một mô hình nổi bật nữa được TTKNQG triển khai trong giai đoạn 2020-2022, đó là mô hình sử dụng hệ thống bể 4 ngăn để xử lý chất thải, sản xuất phân hữu cơ nhằm phòng, chống bệnh dịch tả lợn châu Phi, giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại Hà Nội, Ninh Bình và Hà Nam.
Ngoài việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường, dự án khi triển khai đã hạn chế hiệu quả sự lây lan của dịch bệnh, đồng thời gia tăng thu nhập cho bà con nhờ việc tận dụng chất thải làm phân bón.
Tập trung hướng dẫn chăn nuôi an toàn
Bà Hạ Thúy Hạnh cho biết, để hỗ trợ phát triển chăn nuôi lợn, năm 2021 hệ thống khuyến nông cả nước đã thức hiện tổ chức hàng trăm lớp tập huấn TOT, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi theo VietGAHP, chăn nuôi an toàn sinh học theo hướng hữu cơ, kỹ thuật phòng chống dịch bệnh, kỹ thuật sử dụng vaccine, thuốc...
Trong năm 2021 và 2022, TTKNQG phối hợp Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc (FAO) xây dựng bộ tài liệu về "Thực hành tốt và an toàn sinh học trong chăn nuôi lợn sinh sản quy mô vừa và nhỏ". Mới đây, tại Ninh Bình, TTKNQG đã phối hợp với FAO tổ chức lớp tập huấn "Thực hành tốt và an toàn sinh học trong chăn nuôi lợn sinh sản", với sự tham gia của 21 học viên là cán bộ khuyến nông, cán bộ chuyên môn, cộng tác viên khuyến nông tại các huyện, xã...
"Lớp tập huấn được tổ chức nhằm cung cấp, trang bị những kiến thức về chăn nuôi an toàn sinh học cho cán bộ khuyến nông, cộng tác viên khuyến nông, các cơ sở chăn nuôi lợn sinh sản bố mẹ quy mô vừa và nhỏ... Từ đó, góp phần thay đổi nhận thức, thói quen trong chăn nuôi theo hướng chất lượng, an toàn, bền vững, giá trị cao" - bà Hạnh cho biết.
Bà Hạnh cũng thông tin, vừa qua đoàn công tác của TTKNQG đã đi thị sát một số mô hình nuôi lợn theo hướng hữu cơ tại huyện Yên Sơn (Tuyên Quang). Theo đó, tại hộ ông Bùi Huy Cường, chuồng trại được lót đệm sinh học trên nền đất, đảm bảo phân của đàn lợn thải ra có đủ thời gian thẩm thấu, xử lý, tiêu diệt vi khuẩn bất lợi và không có mùi hôi.
Cuối năm 2021, ông Cường xuất bán 2 lứa lợn thương phẩm, tổng trọng lượng hơn 4 tấn, với giá bình quân từ 80.000 - 120.000 đồng/kg lợn hơi, cao gần gấp đôi so với lợn bình thường.
"Phát triển chăn nuôi theo hướng hữu cơ giúp nâng cao giá trị thương phẩm, giảm tồn dư thuốc kháng sinh và môi trường chăn nuôi được đảm bảo. Lợi thế nữa là chi phí đầu tư không quá lớn nhưng đảm bảo các tiêu chí thiết yếu trong an toàn sinh học" - bà Hạnh nói.
Phó Giám đốc TTKNQG cũng cho biết thêm, giai đoạn 2022-2024 trung tâm sẽ tập trung xây dựng các mô hình liên kết chuỗi trong chăn nuôi lợn nhằm giảm chi phí đầu vào, kiểm soát chặt chẽ về chất lượng, quản lý tốt dịch bệnh, hỗ trợ xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường về chăn nuôi an toàn.
Bên cạnh đó, tăng cường xây dựng các mô hình chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, chăn nuôi theo hướng hữu cơ, từng bước tạo vùng nguyên liệu lớn.
Viện nghiên cứu chiến lược về rừng để mất... hơn 2.000 ha rừng, đất rừng Viện Khoa học lâm nghiệp Nam Trung Bộ và Tây Nguyên được giao 3.280 ha rừng, đất rừng nhưng từ khi quản lý, đơn vị này lại để mất tới hơn 2.000 ha rừng, đất rừng. Viện Khoa học lâm nghiệp Nam Trung Bộ và Tây Nguyên (tại số 9 đường Hùng Vương, TP Đà Lạt, Lâm Đồng) - Ảnh: fsih.gov.vn Ngày 28-2,...