“Hiểu lại và hiểu đúng” để thiết kế chiến lược đầu tư phù hợp cho vùng Đông Nam bộ
TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, “điểm nghẽn” về hạ tầng giao thông kết nối của vùng Đông Nam bộ (ĐNB) có nguyên nhân chủ yếu từ tư duy chiến lược chưa đúng với vị thế của vùng.
Do đó, để khắc phục tình trạng này, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải hiểu lại và hiểu đúng để thiết kế chiến lược đầu tư phù hợp.
TS Trần Đình Thiên
Ách tắc do tư duy chiến lược chưa đúng với vị thế của vùng
* Thưa ông, ông đánh giá như thế nào về thực trạng giao thông kết nối của vùng ĐNB hiện nay?
- Hiện nay, vùng ĐNB có 3 loại hình nghẽn về mặt giao thông. Thứ nhất, nghẽn ở các trung tâm. Ví dụ như TP.HCM là trung tâm của cả vùng nhưng bị nghẽn nên không thông được cả vùng. Cái nghẽn của TP.HCM không chỉ là nghẽn nội vùng mà nghẽn cả quốc tế nữa bởi TP.HCM là trung tâm của quốc gia, quốc tế.
Nghẽn thứ 2 là nghẽn đường vành đai. Hiện nay, toàn vùng quá thiếu đường vành đai. Không có đường vành đai để kết nối các cảng biển, các trung tâm, các đô thị thì không thể nào xử lý được vấn đề giao thông. ĐNB hiện nay chỉ có mỗi đường vành đai 2 nhưng cũng chưa xây dựng xong. Như thế, tỉ trọng đường vành đai so với thực lực phát triển của vùng giống như “cái áo mà trói chặt lại”.
Nghẽn thứ 3 là nghẽn các tuyến dọc kết nối như: tuyến Bà Rịa – Vũng Tàu – Biên Hòa; tuyến TP.HCM lên tỉnh Tây Ninh; tuyến TP.HCM lên tỉnh Bình Phước đi qua tỉnh Bình Dương. Đường vành đai cần phải có những tuyến dọc để kết nối nhưng hiện nay kết nối tuyến dọc cũng rất “căng”. Nói chung thực trạng hiện nay của vùng ĐNB là ách tắc “toàn tập” cả đường bộ, đường biển lẫn đường hàng không.
* Nguyên nhân của tình trạng này là do đâu, thưa ông?
- Theo tôi, tình trạng ách tắc này bắt đầu từ cách tư duy chiến lược. Có lẽ lâu nay, việc nhìn nhận vị thế phát triển của vùng ĐNB là trên quan điểm cục bộ. Tức cứ nghĩ đây là làm cho vùng ĐNB. Do đó, phải nhận thức được rất rõ ràng vùng ĐNB là “tọa độ” quan trọng nhất về mặt kinh tế của đất nước. Giúp cho vùng ĐNB tức là giúp cho đất nước tăng vị thế, tăng hiệu quả và lôi kéo được cả đất nước phát triển.
Video đang HOT
Chúng ta đều biết, đóng góp ngân sách của vùng ĐNB cho ngân sách quốc gia là gần một nửa, do đó, đóng góp của vùng ĐNB mà giảm đi thì ngân sách cả nước cũng giảm. Tuy nhiên, hiện nay, vùng đóng góp nhiều thì lại chưa được đầu tư đúng mức. Nói kiềm chế phát triển thì không đúng, nhưng thực tế hiện nay là chúng ta không tạo điều kiện phát triển cho vùng ĐNB đúng với yêu cầu, vị thế của vùng.
Làm tốt được thưởng, không làm tốt phải chịu phạt
* Để tháo gỡ “điểm nghẽn” về hạ tầng giao thông kết nối của vùng ĐNB, theo ông, đâu là “điểm” cần “gỡ” đầu tiên?
- Theo tôi, đầu tiên là chúng ta phải hiểu lại và hiểu cho đúng. Trong đó, cái cần hiểu đúng đầu tiên là hiểu đúng kinh tế thị trường.
Vùng ĐNB là vùng quan trọng nhất, muốn cả đất nước phát triển thì phải đầu tư cho vùng quan trọng nhất. Vùng ĐNB có lợi thế tuyệt vời, cảng biển, cảng hàng không có cả; có lợi thế mà không tập trung phát huy lợi thế, lại làm cho lợi thế không được phát huy thì như thế là hiểu biết về kinh tế thị trường còn kém. Là vùng vừa quan trọng nhất, lại vừa có lợi thế mà các chiến lược hình như đang làm cho nó giảm đi thì đó là nghịch lý.
Điểm thứ 2 là quan điểm về lợi ích. Lợi ích cho vùng ĐNB là lợi ích chung cho cả đất nước. Không thể theo nguyên tắc cào bằng, làm cho mất động lực, mất khuyến khích phát triển.
* Như ông đã nói, nguyên nhân của tình trạng tắc nghẽn về giao thông kết nối của vùng ĐNB chủ yếu đến từ tư duy chiến lược. Vậy, việc thiết kế lại tư duy chiến lược cần chú ý đến những vấn đề nào, thưa ông?
- Thiết kế chiến lược phải trên tinh thần có tầm nhìn xa. Đã gọi là hạ tầng giao thông thì nguyên tắc tối cao của nó là phải đồng bộ và dài hạn. Dài hạn để làm gì? Chúng ta có thể thấy nhiều con đường vừa làm xong, sử dụng được ít lâu là hỏng. Hay như cảng Cái Mép – Thị Vải, sân bay Tân Sơn Nhất không đồng bộ với hạ tầng nên tắc nghẽn. Phải có một cách nhìn rõ ràng, nguyên lý tối thiểu của phát triển hệ thống là phải kết nối đồng bộ. Tuy nhiên, thực tế của chúng ta hiện nay là các hệ thống giao thông không đồng mức, không đồng bộ với nhau. Đã làm tọa độ nào thì không phải chỉ nhìn ở tọa độ ấy mà phải giải quyết rộng ra, đường phải thông, phải có tầm nhìn chiến lược.
Khi đã xác định tầm nhìn, thiết kế ra chiến lược để hành động, cụ thể bằng các dự án thì phải có cam kết rõ ràng về trách nhiệm. Cam kết nó gắn với tính trách nhiệm cao. Mà tính trách nhiệm cao nó gắn với yếu tố: làm tốt được thưởng, không làm tốt phải chịu phạt.
* Vậy giải pháp đồng bộ cho giao thông kết nối của vùng ĐNB là gì, thưa ông?
- Giải pháp đồng bộ là phải có đường sắt. Chúng ta làm cảng trung chuyển, có tàu 100 ngàn tấn vào thì phải có đường sắt để vận chuyển hàng hóa. Phải có đường cao tốc, đường thủy và tất cả phải đồng bộ, có hệ thống. Chúng ta xây dựng cảng biển thì sau 1 tháng là phải có đường kết nối cảng chứ không thể đợi cảng xây xong, 5 năm sau mới có đường kết nối cảng.
Đồng bộ là vùng phải có hệ thống đường vành đai, các tuyến dọc kết nối. Nguồn vốn đầu tư rất lớn nên không thể xử lý hết cùng một lúc. Do đó, phải chọn những trục cơ bản để chúng ta làm trước. Bàn về hiệu quả giao thông, không có tính đồng bộ là “vứt đi”.
* Xin cảm ơn ông!
Lo nguồn vốn cho dự án Đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu
Dự án Xây dựng đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu đã được chuyển giao cho Bộ GT-VT để triển khai các bước thủ tục đầu tư và dự kiến sẽ được khởi công xây dựng vào cuối năm 2021. Tuy nhiên, nguồn vốn để thực hiện dự án vẫn đang là "nút thắt" chưa được tháo gỡ.
Đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu khi hoàn thành xây dựng sẽ giúp giảm tải lưu lượng phương tiện giao thông trên quốc lộ 51. Ảnh: Phạm Tùng
* Phấn đấu khởi công vào quý IV-2021
Dự án Xây dựng đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu được kỳ vọng sẽ làm giảm áp lực giao thông đối với quốc lộ 51 và tạo tuyến kết nối mới cho vùng Đông Nam bộ. Đặc biệt, dự án này cũng sẽ giúp khai thác hết công suất cảng Cái Mép - Thị Vải vốn mới chỉ khai thác được 40% công suất do gặp khó khăn về giao thông.
Giám đốc Sở GT-VT Từ Nam Thành cho hay, hiện nay do lượng phương tiện lưu thông lớn nên tình trạng kẹt xe, ách tắc thường xuyên xảy ra trên tuyến quốc lộ 51. Do đó, việc sớm triển khai xây dựng đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu, trước hết sẽ giúp giảm áp lực giao thông cho tuyến quốc lộ này, tạo điều kiện phát triển kinh tế, xã hội.
Trong tương lai, khi cảng hàng không quốc tế Long Thành được xây dựng, đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc kết nối, khai thác cảng hàng không lớn nhất cả nước này.
Để thực hiện dự án, Chính phủ đã giao Bộ GT-VT chủ trì, phối hợp với UBND tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và các bộ, ngành liên quan nghiên cứu đề xuất hình thức đầu tư và cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với dự án này.
Cuối tháng 10 vừa qua, UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã có tờ trình kiến nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu (giai đoạn I) qua địa bàn tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu theo hình thức PPP (hợp đồng BOT).
Theo đó, dự án có chiều dài tuyến qua địa bàn tỉnh Đồng Nai khoảng 34,2 km; qua địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu khoảng 19,5km. Điểm đầu nối với tuyến tránh quốc lộ 1 đoạn tránh TP.Biên Hòa, điểm cuối giao với đường vành đai TP.Bà Rịa (quốc lộ 56).
Hiện nay, các bước thực hiện thủ tục đầu tư cho dự án Xây dựng đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu đã được chuyển giao cho Bộ GT-VT thực hiện.
Thứ trưởng Bộ GT-VT Lê Anh Tuấn cho biết, hiện nay Văn phòng Chính phủ đang xin ý kiến góp ý các bộ, ngành để trình Thủ tướng phê duyệt dự án. "Chúng tôi cũng rất mong các cơ quan ủng hộ để phê duyệt chủ trương đầu tư dự án và chúng ta có thể khởi công được vào cuối quý IV-2021" - Thứ trưởng Lê Anh Tuấn cho biết.
* Vẫn lo nguồn vốn
Theo Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi do UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trình Chính phủ, dự án Xây dựng đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu sẽ được đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP), hợp đồng BOT. Tổng mức đầu tư dự án hơn 19 ngàn tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021-2025 và vốn huy động (khoảng hơn 12 ngàn tỷ đồng).
Dự án xây dựng 7 nút giao liên thông, 13 cầu vượt dòng chảy, 4 cầu vượt đường ngang và 19 cầu đường ngang vượt đường cao tốc.
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũng nêu rõ về phương án tài chính thanh toán vốn cho nhà đầu tư. Theo đó, nhà đầu tư thanh toán toàn bộ chi phí đầu tư, thực hiện đầu tư, duy tu bảo dưỡng công trình, chi phí hoạt động trong suốt thời gian khai thác dự án.
Nhà đầu tư thu hồi vốn thông qua thu phí, mức thu phí theo biểu giá quy định của Nhà nước. Trạm thu phí đặt trên tuyến đường mở mới phải đảm bảo lợi ích cho người dân khi tham gia giao thông.
Doanh thu thu phí để tính toán hoàn vốn cho dự án được xác định trên cơ sở dự báo lưu lượng xe; thời gian dự kiến thu phí từ năm 2025. Thời gian khai thác (thu phí) của nhà đầu tư dự kiến 24 năm 6 tháng (sẽ được xác định cụ thể trong bước đàm phán; ký kết hợp đồng dự án). Hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao công trình cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.
Nói về nguồn vốn thực hiện dự án, Thứ trưởng Bộ GT-VT Lê Anh Tuấn cho biết, hiện vẫn rất lo ngại về nguồn vốn thực hiện. Theo ông Lê Anh Tuấn, phải có nguồn ngân sách nhà nước (phần vốn công) để đảm bảo tính khả thi thì mới triển khai được theo hình thức đối tác công tư. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn vốn đầu tư công trung hạn của nhiệm kỳ 2021-2025 chưa được Quốc hội thông qua. "Phải đến năm 2021, Quốc hội mới xem xét phân bổ nguồn vốn đầu tư công trung hạn. Do đó, Bộ GT-VT cũng rất lo lắng với thực trạng con gà, quả trứng lại đợi nhau" - Thứ trưởng Bộ GT-VT Lê Anh Tuấn cho hay.
Thúc đẩy xuất bản phát triển đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số Luật Xuất bản quy định 12 chính sách của Nhà nước với hoạt động xuất bản nói chung và trong từng lĩnh vực xuất bản, in, phát hành, tuy nhiên, trong 7 năm thực hiện chỉ có một số ít được triển khai. Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Hoàng Vĩnh Bảo phát biểu tại hội nghị. (Ảnh: Phan Tuấn Anh/TTXVN)...