Hết cảnh bỏ thai oan vì sợ rubella!
Chứng kiến cảnh các bé bị hội chứng rubella bẩm sinh như mắc bệnh tim, đục thủy tinh thể, điếc, chậm phát triển trí tuệ… thực đau lòng nhưng có nên bỏ thai hay không lại là câu trả lời không dễ đối với bác sĩ, thai phụ và người nhà bệnh nhân.
Di chứng nặng suốt đời
PGS.TS Lê Anh Tuấn, Phó giám đốc bệnh viện phụ sản TƯ cho biết, từ đầu năm tới nay, khoa sơ sinh của viện tiếp nhận 28 trẻ bị rubella bẩm sinh, trong đó 24 trẻ sống, 4 tử vong. Cả 28 em nhỏ này đều có cân nặng dưới 2,4kg (suy dinh dưỡng bào thai), trẻ nhẹ nhất là 900gr. 100% các bé được sinh ra trong tình trạng thiểu ối và cạn ối, ngay sau sinh xuất huyết dạng nốt và giảm tiểu cầu. Nhiều trẻ có số tiểu cầu thấp dưới 50.000, phải truyền khối tiểu cầu nhiều lần và kéo dài dai dẳng. Tất cả các bé đều trong tình trạng thiếu máu rất nặng. Ngoài ra, những trẻ này còn mắc thêm nhiều bệnh trọng khác, đặc biệt là dị tật tim – dị tật nặng nề nhất với trẻ. Cụ thể 7/28 trẻ có bệnh lý về tim bẩm sinh như thông liên thất, thông liên nhĩ, còn ống động mạch… và những dị tật tim khác có thể phát hiện ra khi bé lớn hơn.
Một bé sơ sinh mắc hội chứng này điều trị tại kho Sơ sinh (bv Phụ sản T.Ư). Ảnh: H.Hải
Video đang HOT
Đó là ở trẻ sơ sinh, còn với những trẻ lớn hơn thì sao? Một nghiên cứu của các bác sĩ bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn về 4 trường hợp mắc hội chứng rubella bẩm sinh cho thấy, cuộc sống của những trẻ lớn hơn cũng là tối ngày ở bệnh viện do suy dinh dưỡng trong thời kỳ bào thai và mang những dị tật bẩm sinh rất nặng nề.
Như trường hợp em N.T.L.Đ (bé gái) sau sinh đã có bất thường bẩm sinh (đầu nhỏ, mắt nhỏ, đục thủy tinh thể). Em cũng bị tim bẩm sinh (thông liên nhĩ, còn ống động mạch), bị tổn thương não, điếc cả hai bên tai… Đến khi em được 3 tuổi 6 tháng (tại thời điểm nghiên cứu), em cũng chỉ nặng 9,8kg, chưa thể tự đi. Dù phẫu thuật đục thủy tinh thể lúc 6 tháng tuổi nhưng nay vẫn phải đeo kính hơn 14,5 đi ốp. Em cũng đã phải trải qua cuộc đại phẫu thuật mổ tim thắt ống động mạch lúc 4 tháng tuổi. Thân hình gầy gò dường như bị chèn nặng hơn bởi cặp kính cận và hai máy trợ thính. Em cũng không biết nói, nghe, hiểu rất hạn chế.
3 bé còn lại cũng bị điếc, đục thủy tinh thể, tim bẩm sinh, tổn thương não… khiến việc chăm sóc, điều trị cho các bé gặp rất nhiều khó khăn.
Tiêm phòng trước khi có thai ít nhất 3 tháng
BS Tuấn cho biết, đại đa số trẻ mắc hội chứng rubella bẩm sinh tại viện đều do mẹ không phát hiện được nhiễm rubella khi có thai. Sau khi sinh, hồi cứu lại cho thấy có người sốt, có người phát ban, có người không hề có dấu hiệu điển hình của rubella.
Trong khi đó, căn bệnh này với mọi đối tượng thì không có nguy cơ, riêng với thai phụ cực kỳ nguy hiểm vì nếu thai phụ nhiễm vi-rút rubella trong 3 tháng đầu thì có tới 70-100% trẻ sinh ra bị hội chứng rubella bẩm sinh. Mà căn bệnh này lại quá dễ lây lan, có những thai phụ tuy không hề có dấu hiệu lâm sàng nhưng đã nhiễm bệnh do sống trong môi trường có nguy cơ cao.
Như trường hợp của thai phụ T.T.T.L (Hải Dương) thai 19 tuần tuổi đang được theo dõi mẹ nhiễm rubella tại viện cho thấy, thai phụ này không hề sốt, không hề phát ban. Nhưng khi thai được 5 tuần tuổi, chị có tiếp xúc với trẻ bị sốt. Bệnh nhân này chắc chắn sẽ phải trải qua cuộc đấu tranh tư tưởng giữa giữ – bỏ thai vì xét nghiệm của bệnh nhân thể hiện có mắc rubella nhưng không biết ở thời điểm nào, nên không xác định được nguy cơ dị tật của thai nhi.
“Ngay cả khi có xét nghiệm, có siêu âm hình thái thai (chỉ bắt được một số dị tật ở giai đoạn thai lớn), rồi cả phương pháp chọc dịch ối chẩn đoán thai nhi nhiễm vi-rút rubella bằng kỹ thuật PCR real – times cho kết quả thai nhi có bị lây nhiễm rubella từ mẹ chính xác tới 95% thì vẫn còn đó 5% rủi ro. Hơn nữa, đây chỉ là những biện pháp tình thế, khi sự đã rồi, mẹ đã mắc bệnh, trong khi đó tiêm vắc-xin cho hiệu quả phòng bệnh tuyệt đối thì chưa được chú trọng”, TS Tuấn nói.
Theo TS Tuấn, “đỉnh” của dịch rubella trên thai phụ hồi tháng 6 nhưng nay vẫn có rất nhiều thai phụ mắc rubella đến khám. Với hơn một nghìn ca phải phá thai vì mẹ nhiễm rubella, con số đó quá lớn, đã đến lúc cần phải tiêm phòng cho tất cả những phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Về lâu dài hơn, nên tiêm vắc xin cho tất cả trẻ gái. Đó là cách tốt nhất để không bỏ nhầm thai nhi, thai nhi không bị dị tật bẩm sinh.
Nếu tiêm phòng trước khi mang thai thì cần ghi nhớ, sau 3 tháng mới nên có thai. Còn khi đã có thai thì tuyệt đối không được tiêm chủng, vì vắc-xin rubella là loại vắc-xin sống, chỉ giảm độc lực, thường sản xuất dưới dạng “tam liên” cùng với các vắc-xin phòng sởi và quai bị, có thể gây tác động xấu tới thai nhi.
Theo Dân Trí
Có nên chọn ngày, giờ để sinh con?
Và việc chọn ngày, giờ để sinh con có những ảnh hưởng như thế nào đến thai phụ và thai nhi?
Ngày càng có nhiều sản phụ chọn phương pháp sinh mổ, họ quan niệm rằng việc phẫu thuật giúp họ lựa chọn được ngày sinh, tháng đẻ, giờ sinh và cả bác sĩ mát tay và số giường, số phòng... để sinh con quý tử, hợp với bố mẹ...
Yếu tố tâm linh là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến nhiều sản phụ chọn phương pháp phẫu thuật thay vì sinh đẻ tự nhiên. Nhưng có thật sự là ai sinh vào ngày, giờ "vàng" cũng tốt không? Và việc chọn ngày, giờ để sinh con có những ảnh hưởng như thế nào đến thai phụ và thai nhi?
Những con số đáng báo động
Theo nghiên cứu mới đây của nhóm bác sĩ Bệnh viện phụ sản TƯ và Trường Đại học Y Hà Nội, tỷ lệ mổ lấy thai ở nước ta đang có xu hướng tăng dần. Hiện, tỷ lệ này ở Bệnh viện phụ sản TƯ là gần 41%, Bệnh viện phụ sản Hà Nội là hơn 43%. Trong số 423 bà mẹ (ở hai quận Hoàn Kiếm, Gia Lâm) tham gia nghiên cứu, có 30,3% bà mẹ mổ lấy thai, trong đó, 14% muốn mổ lấy thai để chọn được ngày, giờ sinh tốt cho đứa trẻ và 16,7% là do chịu sự tác động từ phía gia đình...
Tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long có nhiều thời điểm tỷ lệ mổ đẻ chiếm tới 60% các ca sinh nở.
Con số thấp hơn, như ở Bệnh viện TP Hồ Chí Minh các ca mổ đẻ cũng chiếm trên 30%. Tại Bệnh viện Đà Nẵng, tỷ lệ này cũng trên 40% ca mổ đẻ. Trong khi đó, mức trung bình trên thế giới chỉ chiếm trên 10% tổng số các ca sinh.
Nhiều nguy cơ cho mẹ và con
Theo các bác sĩ, có thể tiến hành các ca mổ đẻ trước từ mấy tuần tuổi, miễn sao đảm bảo theo tiêu chuẩn, chỉ định của ngành y tế. Nhưng việc can thiệp thai nhi sớm, chắc chắn làm ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của bào thai cũng như đứa trẻ sau này và cả người mẹ nữa.
Theo đó, dù nguyên nhân nào thì việc đứa trẻ chào đời do không được ra bằng đường tự nhiên (trẻ không đi qua ống âm đạo, phổi không bị ép để tống xuất các chất dịch) nên dạ dày và phổi có thể vẫn còn nước ối. Sự tồn ứ dịch trong phổi trẻ làm tăng nguy cơ suy hô hấp, gây bệnh màng trong.
Đây là các bệnh lý rất nặng ở trẻ sơ sinh, việc điều trị đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Ngoài ra, sự chuyển dạ của người mẹ sẽ sản sinh ra nhiều hormon giúp trẻ đề kháng tốt. Những trẻ sinh mổ không trải qua quá trình này sẽ thiếu những hormon cần thiết nên thường yếu hơn những trẻ sinh thường.
Việc sinh mổ còn có thể dẫn đến những biến chứng cho người mẹ trong lần mang thai sau, nhất là nguy cơ chửa ngoài dạ con, vỡ tử cung ở mẹ, nhau thai bám vào vết mổ cũ... rồi lần sinh con sau hầu như đều phải mổ, quá trình mang thai sau cũng phải theo dõi sát sao, căng thẳng hơn.
Vì vậy, trước khi đề nghị chọn ngày giờ sinh mổ, sản phụ cần tìm hiểu kỹ những ích lợi và tác hại của nó, lắng nghe những tư vấn của bác sĩ. Nếu bác sĩ không chỉ định mổ lấy thai, sản phụ nên sinh con theo cách tự nhiên.
Bác sĩ sẽ chỉ định cho sinh mổ trong một số trường hợp như: thai quá to, người mẹ có bệnh nhiễm khuẩn có thể gây lây nhiễm cho bé trong khi sinh thường hay dị tật về cơ thể, mẹ mang thai nhiều bé cùng một lúc, trẻ bị tràng hoa quấn cổ có nguy cơ tử vong, thai ngược...
Theo PLXH
Những nguyên nhân sẩy thai thường gặp Theo ước tính cứ khoảng 5 thai phụ thì có 1 người bị sảy thai. Và hầu hết những trường hợp sảy thai đều xảy ra trong vòng 3 tháng đầu. Có rất nhiều nguyên nhân gây sảy thai, nhưng nếu biết trước được nguyên nhân thì thai phụ cũng có thể phòng tránh nhằm hạn chế rủi ro cao nhất. Chị Minh...