Hãy đưa các nhà khoa học trẻ ra nước ngoài
Giáo sư Osheroff (phải) – Ảnh: Bạch Dương
Đó là ý kiến của GS Douglas D.Osheroff, nhà khoa học đoạt giải Nobel Vật lý 1996 thuộc ĐH Stanford (Mỹ) khi trả lời phỏng vấn Thanh Niên.
Hôm qua 13.12, ông có mặt tại Hà Nội để tham dự chuỗi sự kiện “Cầu nối – Cuộc đối thoại hướng đến văn hóa hòa bình” do Quỹ hòa bình quốc tế, Bộ GD-ĐT tổ chức. Trong chuyến thăm lần thứ tư tại Đông Nam Á, ông đã dành cho Thanh Niên một cuộc phỏng vấn về việc làm thế nào để phát triển nền khoa học của VN.
Ông đánh giá thế nào về vai trò của gia đình và hệ thống giáo dục đối với việc tạo ra những tài năng khoa học? Thành công của ông có sự ảnh hưởng như thế nào từ gia đình?
Tôi là một người đặc biệt may mắn khi cha mẹ tôi rất ủng hộ. Bố tôi rất khuyến khích tính tò mò của tôi khi tôi còn là một cậu bé, tôi có thể thoải mái tháo tung các loại đồ chơi để khám phá các loại động cơ hay cấu tạo bên trong. Từ khi còn bé, tôi từng làm những thí nghiệm khoa học từ lúc tôi 6 – 8 tuổi, bố tôi đã khuyến khích tôi rất nhiều mà đôi khi những thí nghiệm là khá nguy hiểm. Vai trò của cha mẹ là rất quan trọng trong việc giúp con cái hình thành và nuôi dưỡng những niềm đam mê trong suốt cuộc đời mình. Thế nhưng thực tế là chúng ta cũng không thể mong đợi rằng tất cả các ông bố bà mẹ đều là những bậc phụ huynh biết khuyến khích, ủng hộ con cái mình. Điều đó cũng hơi đáng buồn.
Vì vậy, vai trò của giáo viên và nhà trường trở nên quan trọng hơn. Làm thế nào để có được nhiều giáo viên có khả năng truyền cảm hứng và khuyến khích học sinh đến với khoa học là một điều rất quan trọng. Tất nhiên để phát triển khoa học cũng cần có sự đầu tư lớn cho những phòng thí nghiệm, thiết bị đắt tiền. Có thể hiện tại chưa có nhiều nguồn lực của quốc gia được đầu tư cho việc khuyến khích các nhà khoa học trẻ. Thế nhưng một khía cạnh khác của vấn đề là nếu không có sự đầu tư cho khoa học thì các bạn sẽ không bao giờ trở thành một đất nước phát triển được.
Ở VN có một câu hỏi thường được đặt ra là “Bao giờ sẽ có một nhà khoa VN đoạt giải Nobel?”, thậm chí đã có đề án chiến lược để VN có giải Nobel. Ông có bình luận gì về điều đó?
(Cười) Có lẽ các bạn chưa cần lo lắng lắm về giải Nobel. Một quốc gia lớn như Trung Quốc cũng đang mòn mỏi mong chờ giải Nobel của họ đấy. Tôi thực sự không biết mục tiêu mà một quốc gia nào đó đặt ra cho việc cần thiết phải đoạt giải Nobel là gì. Mục tiêu theo tôi nên là tạo ra và đào tạo một lực lượng lao động có khả năng tìm ra những cách thức mới để giải quyết các vấn đề mà quốc gia đó gặp phải.
Nếu ông được mời tư vấn cho việc phát triển khoa học VN, ông sẽ đưa ra những ý kiến gì?
Tôi nghĩ cách nhanh nhất và tốt nhất để giúp VN phát triển khoa học đó là các bạn cần đưa càng nhiều càng tốt các nhà khoa học trẻ, tài năng tới học tập và nghiên cứu ở những nơi có trình độ khoa học cao như châu Âu, Mỹ. Khi đó, các nhà khoa học trẻ VN có thể học hỏi từ môi trường quốc tế. Đồng thời, những nhà khoa học quốc tế cũng có thể hiểu thêm về đất nước, con người VN. Sự trao đổi khoa học không chỉ dừng lại ở những công trình nghiên cứu mà còn ở khía cạnh văn hóa.
Video đang HOT
Việc nghiên cứu khoa học là rất tốn kém và cần có sự đầu tư từ phía nhà nước. Đầu tiên là một trung tâm thí nghiệm với những công cụ hiện đại để phục vụ cho các nhà nghiên cứu. Việc có một phòng thí nghiệm hiện đại không phải là yếu tố tiên quyết nhưng sẽ là rất tốt nếu có thể đầu tư được như vậy.
VN cũng nên thúc đẩy cơ hội cho việc đối thoại, trao đổi thông tin giữa các nhà khoa học trong nước và giới nghiên cứu quốc tế. Việc trao đổi có thể giúp các bạn cập nhật thông tin, đồng thời cũng tránh nghiên cứu lại từ đầu những vấn đề đã được giải quyết. Làm thế nào nhà nước có những chính sách có thể khuyến khích các học sinh, sinh viên theo đuổi niềm đam mê khoa học của mình. Đích đến của niềm đam mê ấy không là việc kiếm tiền mà là những khám phá, phát minh trong khoa học.
GS Douglas D.Osheroff thuộc Khoa Vật lý Trường đại học Stanford, đoạt giải Nobel Vật lý năm 1996 cho phát hiện của ông về tính siêu lỏng của helium 3. Bên cạnh giải Nobel, ông còn được trao nhiều giải thưởng quan trọng khác như giải Sir Francis Simon, giải Oliver E.Buckley, MacArthur Prize Fellowship…
Ngoài ra, GS Osheroff còn được bổ nhiệm làm việc trong ban điều tra vụ nổ tàu con thoi Columbia năm 2003. GS Osheroff sẽ có buổi giảng về chủ đề “Khoa học thay đổi cuộc sống của chúng ta như thế nào?” vào ngày hôm nay 14.12 tại ĐH Quốc gia Hà Nội. GS Osheroff là nhà khoa học đoạt Nobel thứ ba trong khuôn khổ chương trình “Cầu nối – Cuộc đối thoại hướng đến văn hóa hòa bình” lần thứ tư tại Đông Nam Á.
Theo TNO
Cầu nối đưa chủ nhân Nobel đến Việt Nam
Chủ tịch Quỹ Hòa bình Quốc tế Uwe Morawetz hy vọng tạo được cầu nối vững chắc giữa các chủ nhân giải Nobel với Việt Nam.
Chủ tịch Quỹ Hòa bình Quốc tế Uwe Morawetz
Theo dự kiến, từ cuối năm 2012 đến đầu năm sau, Quỹ Hòa bình Quốc tế sẽ tổ chức hàng loạt sự kiện thuộc dự án Bridges (tạm dịch: Cầu nối) tại Việt Nam với sự tham gia của những nhân vật nổi tiếng thuộc nhiều lĩnh vực trên thế giới. Người sáng lập kiêm Chủ tịch quỹ Uwe Morawetz đã trả lời phỏng vấn của Thanh Niên về ý nghĩa và các bước triển khai dự án Bridges sắp tới.
Nói một cách tóm tắt, dự án Bridges là gì, thưa ông?
Bridges là một chuỗi gồm 450 sự kiện (tính đến hiện nay) do Quỹ Hòa bình Quốc tế, có trụ sở tại Vienna (Áo), tổ chức tại các nước ASEAN từ năm 2003. Tham gia những sự kiện này gồm có những học giả đoạt giải Nobel trong các lĩnh vực Hòa bình, Vật lý, Hóa học, Y học, Kinh tế và Văn chương, cũng như những gương mặt như chuyên gia Hans Blix, diễn viên Thành Long, nghệ sĩ vĩ cầm Vanessa-Mae, đạo diễn Oliver Stone... Thông qua các hoạt động, Bridges tạo điều kiện và củng cố đối thoại cũng như mối liên lạc giữa các xã hội tại Đông Nam Á với những người đến từ các nơi khác trên thế giới nhằm tăng cường sự thấu hiểu và tin tưởng.
Các sự kiện trên sẽ đóng vai trò cầu nối giữa học giả đoạt giải Nobel với những trường đại học và viện nghiên cứu tại Đông Nam Á, thiết lập quan hệ dài hạn và kết quả sẽ là những chương trình nghiên cứu chung cùng các hình thức cộng tác khác. Bằng việc củng cố khoa học, kỹ thuật và giáo dục như là nền tảng cho hòa bình và phát triển, các sự kiện này sẽ nâng tầm hợp tác hướng đến mục tiêu hòa bình, tự do và an ninh trong khu vực với sự tham gia tích cực của thế hệ trẻ.
Chủ nhân giải Nobel Hóa học 1985 Jerome Karle trao đổi với sinh viên Thái Lan
- Ảnh: Peace-foundation.net
Tại sao ông lại chọn châu Á tiếp tục dự án trên sau châu Âu, và ông có thể cho biết những thành tựu chính tại châu Á của Bridges tính đến thời điểm này?
Sau khi tổ chức hơn 700 chương trình và sự kiện tại châu Âu từ năm 1989, Quỹ Hòa bình Quốc tế vào năm 2003 đã được chính phủ Thái Lan mời tiến hành Bridges ở nước này. Sau thành công của chương trình, vốn bao gồm 450 sự kiện với sự góp mặt của 38 học giả Nobel và 18 diễn giả, với khoảng 140.000 người tham gia ở Thái Lan, Quỹ Hòa bình Quốc tế đã nhận được lời mời từ toàn bộ thành viên còn lại của ASEAN. Từ năm 2007, các nước ASEAN từng đăng cai tổ chức Bridges lần lượt là Philippines, Malaysia, Campuchia, và đến nay là Việt Nam. Sau đó sẽ là Singapore, Indonesia, Lào, Brunei, Myanmar và có thể cả Đông Timor.
Tại sao lại là ASEAN? Khi các học giả Nobel đến châu Á, họ thường tới Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc hoặc Đài Loan, nhưng rất ít khi đến các nước ASEAN. Vai trò của chúng tôi nhằm giới thiệu các học giả Nobel đến ASEAN và những người lần đầu tiên đến khu vực này thông qua chương trình Bridges đều thường xuyên quay lại để hợp tác với các bộ, trường đại học. Sinh viên ASEAN cũng được mời đến làm việc trong các phòng thí nghiệm của học giả Nobel. Đây là cách Bridges hỗ trợ nhằm liên tục củng cố hệ thống giáo dục ở ASEAN và về dài hạn, cung cấp nền tảng cho hòa bình.
Ngoài khía cạnh hợp tác học thuật, Bridges đóng vai trò trong việc gây quỹ cho nghiên cứu khoa học và viện trợ nhân đạo bảo vệ môi trường, chăm sóc y tế, trao đổi văn hóa...
Một sự kiện Bridges ở Malaysia
Ông hy vọng sẽ đạt được điều gì với Bridges tại Việt Nam?
Chúng tôi đã nhận được lời mời từ chính phủ Việt Nam và trong 2 năm qua, chúng tôi đã làm việc chặt chẽ với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng - Chủ tịch danh dự của Bridges Việt Nam cũng như với Bộ Giáo dục - Đào tạo để chuẩn bị sự kiện chính từ tháng 11.2012 - 3.2013. Toàn bộ các sự kiện đều được tổ chức miễn phí và chào đón mọi thành phần xã hội. Chúng tôi đặc biệt hy vọng sẽ tạo được cảm hứng cho thế hệ trẻ, những người sẽ có thể tiếp xúc với các học giả Nobel từ mọi lĩnh vực, cũng như với Giáo sư Ngô Bảo Châu và cựu Chủ tịch Ủy ban châu Âu Romano Prodi.
Chúng tôi cũng hy vọng sẽ giúp các học giả Nobel, đều là lần đầu tiên đến Việt Nam, cảm nhận được nhiều hơn nữa về đất nước của các bạn. Thay vì đơn giản là đến phát biểu, ở lại một đêm rồi rời đi, những người tham gia chương trình Bridges sẽ chia sẻ, tiếp cận và lắng nghe. Họ đến đây không chỉ trong một ngày hoặc một sự kiện, mà tham gia nhiều cuộc đối thoại và sự kiện khác nhau mà không yêu cầu tiền thù lao, vì họ quan tâm thực sự đến Việt Nam và quyết tâm xây dựng cầu nối.
Các học giả Nobel và những diễn giả khác đến Việt Nam đã được lựa chọn như thế nào?
Chúng tôi, cùng với đối tác là các viện nghiên cứu địa phương, quyết định chọn các diễn giả có khả năng kết nối dễ dàng với mọi tầng lớp xã hội, chủ yếu là giới sinh viên trẻ. Họ sẽ diễn giải bằng ngôn ngữ dễ hiểu, có khả năng tham gia vào các cuộc đối thoại, trả lời các câu hỏi mở rộng với cử tọa. Ví dụ, học giả Nobel về vật lý, hóa học và y học sẽ đề cập các chủ đề thiết thực như: "Khoa học thay đổi cuộc sống chúng ta như thế nào", hay "Ngăn chặn ung thư". Mỗi sự kiện, thường kéo dài khoảng 2 giờ, được xây dựng theo hướng đối thoại là trọng tâm với khoảng 35 - 45 phút phát biểu, và ít nhất 60 phút dành cho hỏi - đáp. Chúng tôi không chỉ muốn các học giả Nobel diễn thuyết, mà còn lắng nghe, tìm hiểu về nhu cầu của xã hội Việt Nam thời nay và liệu họ sẽ có ích như thế nào cho sự phát triển của Việt Nam trong dài hạn.
Sau Brigdes Việt Nam sẽ là gì?
Chúng tôi hy vọng, cũng như ở các nước ASEAN trước đây, các đối tác Việt Nam sẽ triển khai sáng kiến của Bridges và mời các học giả Nobel trở lại để bắt đầu các chương trình nghiên cứu hoặc những hình thái hợp tác khác. Chúng tôi chắc chắn rằng chuyến thăm đầu tiên sẽ gây ấn tượng lâu dài đối với những học giả Nobel và họ sẽ trở thành các đại sứ thiện chí, thúc đẩy các học giả Nobel khác đến trong tương lai.
Lịch trình dự kiến
- Ngày 14 - 18.11.2012: Giáo sư Roger Myerson, Nobel Kinh tế năm 2007
Chủ đề: "Sự lãnh đạo, dân chủ và chính quyền địa phương".
- Ngày 27.11 - 1.12.2012: Giáo sư Harald zur Hausen, Nobel Y học năm 2008
Chủ đề: "Ngăn chặn ung thư là thách thức đối với sức khỏe toàn cầu".
- Ngày 13 - 15.12.2012: Giáo sư Douglas D.Osheroff, Nobel Vật lý năm 1996
Chủ đề: "Khoa học thay đổi cuộc sống chúng ta như thế nào".
- Ngày 12 - 17.1.2013: Tiến sĩ Jose Ramos-Horta, Nobel Hòa bình năm 1996
Chủ đề: "Mâu thuẫn, đối thoại và hòa bình tại Đông Nam Á".
- Ngày 29 - 30.1.2013: Giáo sư Harold W.Kroto, Nobel Hóa học năm 1996
Chủ đề: "Giáo dục - nền tảng của hòa bình và chìa khóa cho một cộng đồng toàn cầu được giải thoát khỏi thành kiến".
- Ngày 9 - 17.3.2013: Giáo sư Ngô Bảo Châu, chủ nhân giải toán học Fields năm 2010. Chủ đề: "Chúng ta học hỏi như thế nào?".
- Ngày 17 - 18.3.2013: Giáo sư Romano Prodi, cựu Chủ tịch Ủy ban Châu Âu
Chủ đề: "Chính trị và hòa bình - sự hợp tác trên toàn thế giới trong thời đại toàn cầu hóa".
Theo TNO
Nobel Vật lý mở hi vọng về siêu máy tính Giải Nobel Vật lý năm nay đã được trao cho hai nhà nghiên cứu người Pháp và Mỹ vì đã tìm ra cách đo hạt lượng tử mà không cần phá vỡ chúng, mở hi vọng phát triển một loại máy tính mới mạnh hơn rất nhiều từ trước tới nay. Nhà khoa học người Pháp Serge Haroche (trái) và nhà khoa học...