Hành trình trên chuyến tàu Yên Viên – Hạ Long
Hành trình từ ga Yên Viên đến Hạ Long, rồi quay trở về là vừa hết 1 ngày cho quãng đường dài 160km, đây là chuyến tàu chợ nên tốc độ di chuyển khá chậm. Tuy nhiên, đối với nhiều người, đặc biệt là các tiểu thương, đây vẫn là lựa chọn của họ trong mỗi chuyến đi.
Các tiểu thương chuyển lên tàu những bao tải rau củ quả đã được chuẩn bị sẵn.
Chuyến tàu rời ga lúc 4 giờ 45 phút sáng, khi không khí còn đang đặc quánh trong bầu trời đêm, xung quanh nhà ga không có âm thanh nào khác ngoài tiếng lạch cạch của người thợ máy đang đi kiểm tra an toàn của các chi tiết máy dưới gầm các toa xe.
Tiếp sau đó là 3 hồi còi báo hiệu tàu sắp chuyển bánh. Ánh sáng phát ra từ chiếc đèn pha trên đầu tàu soi rõ từng viên đá dưới chân đường ray. Nếu không ở gần đường ray, có lẽ không ai biết có chuyến tàu rời ga vào thời điểm ấy. Tuyến Yên Viên – Hạ Long dài hơn 160km chạy qua 15 ga trải qua 5 tỉnh, thành phố là Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Quảng Ninh. Tàu chạy với tốc độ trung bình 25km/h, cao nhất cũng chỉ 40km/h.
Trên toa xe dành cho hành khách, có 2 dãy ghế gỗ như nhiều chuyến tàu chạy Bắc – Nam. Hôm nay, trên toa tàu chỉ có hai chị em bà Thân Thị Liên trở về Hạ Long sau hơn 1 tuần vào Hà Nội thăm con gái và các cháu. Những dãy ghế còn lại trống trơn khiến toa tàu như dài thêm trên hành trình của mình. Bên ngoài trời rả rích mưa, gió thổi ù ù xen lẫn tiếng xình xịch của đoàn tàu cứ vọng đều vào bên trong, kéo theo từng đợt mưa làm ướt cả một dãy ghế. Những ô cửa kính nhìn ra bên ngoài đã loang loáng nước, ánh đèn thức giấc của những ngôi nhà dọc hai bên đường trở thành những đốm sáng xanh vàng mờ nhòe. Bà Liên cho biết, dù phải dậy sớm để ra ga cho kịp giờ tàu chạy, nhưng bà đã gắn bó nhiều năm với chuyến tàu, nó thuận tiện cho việc đi lại, đồng thời cũng trở thành thói quen di chuyển mỗi lần có việc vào Hà Nội.
Anh Trung, nhân viên kỹ thuật máy tranh thủ kiểm tra lại các thiết bị trên tàu, công việc này gắn bó với anh từ khi bắt đầu đi làm. Như một thói quen, anh đi dọc từ đầu tới cuối, đóng các cửa kính còn đang mở trên toa hành khách. Đây cũng là toa hành khách duy nhất của cả đoàn tàu, 2 toa còn lại dùng để chở hàng hóa. Hoạt động từ những năm 50 của thế kỷ trước, do hiệu quả kinh doanh vận tải không cao nên không có nhiều kinh phí để sửa chữa thường xuyên hay đóng mới.
Vì thế mà tất cả các thiết bị trên tàu đều khiến người ta nhớ lại đoàn tàu của thời bao cấp. Những chiếc quạt trên trần được sơn lại một lớp màu xanh dương, không đủ để che đi cái sần sùi của gỉ sét nhiều năm. Hệ thống đèn chiếu sáng dùng điện chiều 24V, tất cả những vật dụng trên tàu đều chỉ nhìn thấy mờ mờ, đo đỏ qua thứ ánh sáng này.
Trời dần sáng rõ, các toa chở hàng có cửa khá rộng luôn để mở, chỉ giăng dây xích để đảm bảo an toàn cho người trên tàu. Qua ô cửa lớn này, có thể nhìn thấy rõ những dãy đồi, những cánh đồng trôi dần về phía sau. Một chiếc bàn kê ở giữa làm chỗ ngồi uống nước cho các nhân viên trên tàu, và cho cả hành khách khi có nhu cầu. Ngồi ở đây có thể nghe tiếng gió vù vù, đôi khi là những ngọn tre rủ xuống chạm vào thành tàu nghe rẹt rẹt.
Trưởng tàu Nguyễn Hữu Ninh cho biết: Để chuẩn bị cho mỗi chuyến đi, các nhân viên trên tàu phải thức dậy từ 3 giờ sáng. Mặc dù công việc khá vất vả, nhưng cùng làm việc trên đoàn tàu từ nhiều năm nay, mọi người dường như đã rất quen và gắn bó với nhau như anh em ruột thịt, giúp đỡ nhau trong những lúc khó khăn. Đối với chúng tôi, đây chính là ngôi nhà thứ 2 của mình. Cùng với đó, việc mang lại sự thuận lợi trong đi lại đối với người dân buôn bán và các tiểu thương khiến chúng tôi rất vui mà quên đi mệt nhọc.
Video đang HOT
Đoàn tàu lần lượt đi qua 4 ga Từ Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang, dừng ở ga Phố Tráng (Bắc Giang) thêm một số hành khách bước lên, đây là nhóm bạn đồng ngũ, tóc đã chuyển bạc gần hết. Họ không ngồi ở toa hành khách mà vui vẻ ngồi bàn uống trà với Trưởng tàu Nguyễn Hữu Ninh và 4 nhân viên của đoàn tàu.
Những câu chuyện, tiếng cười của hành khách và nhân viên đường sắt cứ trao đi đổi lại như những người thân lâu ngày gặp lại. Xen lẫn trong đó là tiếng máy, tiếng bánh xe rít lên từng hồi mỗi lần lăn qua đoạn giáp nối của các thanh ray, thi thoảng còn có thêm tiếng còi từ đầu máy vọng lại. Anh Ninh chia sẻ: “Trên chuyến tàu này, ngoài các đi chợ mỗi ngày mà chúng tôi đã quen thuộc, một số hành khách thì hàng tuần, có khi cả tháng gặp lại một lần. Lâu lâu mới gặp được cả nhóm gần chục người cùng lên tàu thế này, có thêm người trò chuyện làm mình cũng quên đi quãng đường trước mắt”.
Toa tàu chở đầy hàng hóa.
Tàu đến ga Lan Mẫu, các tiểu thương vội vã chuyển lên tàu những bao tải nào rau củ quả, nào những lồng gà, lồng vịt đã được chuẩn bị sẵn dọc 2 bên đường ray hoặc sân ga. Những người đi tàu ở đây đã rất quen thuộc với giờ tàu đến, tàu đi. Chị Nguyễn Thị Nở, một tiểu thương chuyên buôn rau thơm, hành tỏi từ ga Lan Mẫu ra ga Hạ Long cho biết, nhà chị gần ga nên việc đi lại, vận chuyển hàng hóa rất thuận tiện, không phải di chuyển nhiều.
Hơn thế nữa, trước đây chị là công nhân đội than cho đầu máy hơi nước, từ khi thay thế bằng các đầu máy chạy dầu, những người công nhân vận chuyển than như chị đều phải nghỉ. Chuyến tàu vừa là phương tiện để chị mang hàng hóa đi bán, vừa như cho chị sống lại cái thời còn làm công nhân đường sắt, giờ đây đã trở thành kỷ niệm. Hôm nào mà ốm hay mệt, phải nghỉ ở nhà thì lại thấy nhớ tiếng xình xịch của đoàn tàu, nhớ cả những người bạn đồng hành mỗi ngày.
Trên hành trình của mình, trừ ga đầu là Yên Viên và ga cuối là Hạ Long, mỗi lần tàu dừng lại thường chỉ 5 phút mà mọi thứ hàng hóa đều được chuyển lên toa xe một cách gọn gàng. Mỗi lần dừng như vậy, các nhân viên trên tàu cũng hối hả phụ giúp các tiểu thương chuyển hàng hóa lên cho kịp giờ. Cứ như thế, lúc tàu đến ga Hạ Long thì đồng hồ cũng chỉ 11 giờ 30, phiên chợ sẽ bắt đầu từ thời điểm đó, mọi việc mua bán, trao đổi ở chợ cũng chỉ diễn ra đến 13 giờ 30 là kết thúc.
Trên hành trình trở về là lúc các tiểu thương lấy sổ sách ngồi tính toán lỗ lãi cho buổi chợ của mình trong lúc tranh thủ ăn bữa trưa vội vã bằng chiếc bánh mì hay bánh bao cho qua bữa. Chị Nở vừa cầm ổ bánh mì vừa tính toán lại tiề.n hàng trên cuốn sổ đã cũ. Hôm nay, chị bán không hết hàng, còn một ít mang về ăn nốt chứ không để bán cho ngày mai được. Một số người tranh thủ chợp mắt trên những chiếc võng đã treo sẵn ở gần các ô cửa sổ.
Cứ như thế, mỗi ngày một chuyến tàu đi qua là một chuyến buôn của các tiểu thương. Họ gắn bó với chuyến tàu một phần vì giá cước vận chuyển khá rẻ, phần nữa vì nó an toàn, mặc dù di chuyển hơi chậm nhưng đúng giờ giấc. Với nhiều người, chuyến tàu lại như người bạn đồng hành suốt nhiều năm qua.
Cao Tiến
Theo laodongthudo.vn
Trồng rừng gỗ lớn - hiệu quả nhân đôi
Đến thăm một số xã khó khăn thuộc tỉnh Yên Bái, Bắc Giang, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế và Cà Mau, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên bởi màu xanh bạt ngàn của những cánh rừng keo lai, keo tai tượng, hứa hẹn sẽ mang lại năng suất và giá trị kinh tế cao cho người trồng rừng.
Đây là kết quả đạt được từ mô hình trồng rừng thâm canh gỗ lớn do Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ NNPTNT chủ trì, phối hợp với chi cục kiểm lâm các tỉnh triển khai trong giai đoạn 2014 - 2019.
Tăng năng suất và giá trị kinh tế rừng trồng
Theo báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp, tổng diện tích xây dựng mô hình trồng rừng thâm canh gỗ lớn là 789ha (trong đó có 320ha keo lai, 469ha keo tai tượng) được triển khai tại 62 xã khó khăn thuộc 36 huyện, 453 hộ tham gia dự án.
Một mô hình trồng rừng gỗ lớn tại Bắc Giang. Ảnh: S.H
Mô hình trồng rừng keo lai sử dụng các giống tiến bộ kỹ thuật cho năng suất cao đã được Bộ NNPTNT công nhận là các dòng BV10, BV16, BV32, BV33, BV 73, BV75. Mô hình trồng rừng keo tai tượng sử dụng giống keo tai tượng Úc. Mô hình được lựa chọn tương đối tập trung, gần đường giao thông, gần các khu dân cư; có lập địa tốt, khí hậu thuận lợi, phù hợp với đặc điểm sinh thái của cây keo.
Mô hình thực hiện các giải pháp kỹ thuật đúng theo quy trình được phê duyệt; các chỉ số sinh trưởng về đường kính, chiều cao, trữ lượng, năng suất bình quân/năm của mô hình đều vượt trội so với diện tích rừng trồng trong khu vực.
Đến thăm gia đình ông Nguyễn Văn Điều (ở bản Xoan, xã Xuân Lương huyện Yên Thế, Bắc Giang), ông cho biết, gia đình được giao khoán 10ha đất lâm nghiệp. Sau khi khai thác rừng keo tai tượng trồng từ năm 1995, ông thu được 720 triệu đồng, bình quân chỉ được 9 triệu đồng/ha/năm (chưa trừ chi phí đầu tư ban đầu và chăm sóc), nên tính ra hiệu quả kinh tế rất thấp.
Sau khi nghe cán bộ Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Bắc Giang tư vấn về nội dung dự án, cũng như hiệu quả kinh tế của mô hình thâm canh gỗ lớn với chu kỳ kinh doanh dài hơn, nhưng hiệu quả cao gấp đôi, ông Điều đã mạnh dạn tham gia dự án. Đi thăm khu rừng keo tai tượng do gia đình ông trồng từ tháng 6/2015, chúng tôi thấy mật độ trồng rừng rất thưa so với mật độ trồng rừng gỗ nhỏ, hàng cách hàng 3m, cây cách cây 2,5m, cây sinh trưởng đều, thân thẳng tắp, nhiều cây đã đạt đường kính trên 20cm, chiều cao vút ngọn đạt 15m.
Đến thăm Hợp tác xã Phú Hưng ở xã Hải Phú (Hải Lăng, Quảng Trị), ông Nguyễn Thể - Chủ nhiệm Hợp tác xã phấn khởi khoe, hợp tác xã được giao 278ha đất rừng chủ yếu là trồng thông mã vĩ và keo lai. Để tham gia dự án, sau khi khai thác 10ha keo lai, hợp tác xã để nguyên cành cây, lá cây không cho đốt, thuê máy xúc để múc hố, sau đó trồng cây vào đúng mùa mưa nên tỷ lệ sống cao. Lô rừng này được chăm sóc 2 lần/năm, bón phân mỗi năm 1 lần, mỗi cây bón 0,2kg phân NPK, bón thúc 0,3kg.
Đến nay, hơn 10ha rừng trồng keo lai 54 tháng tuổ.i đang độ sinh trưởng và phát triển tốt, cao trung bình khoảng 15m, đường kính khoảng 20cm. Ông Thể cho biết thêm, các diện tích rừng của hợp tác xã đã được cấp chứng chỉ rừng bền vững (FSC), giá gỗ có chứng chỉ hiện nay là 1,5 triệu đồng/tấn, cao hơn gỗ không có chứng chỉ từ 18 - 20%. Khu rừng này, nếu khai thác được khoảng 120 tấn/ha, trị giá 180 triệu đồng/ha, nhưng hợp tác xã cam kết không khai thác, để gỗ lớn với chu kỳ 10 - 12 năm.
Hướng đi mới cho ngành lâm nghiệp
Theo ông Triệu Văn Lực - Vụ trưởng Vụ Phát triển rừng (Tổng cục Lâm nghiệp), keo lai và keo tai tượng là cây lâm nghiệp chính đang được gây trồng phổ biến ở hầu hết các vùng sinh thái trong cả nước. Rừng trồng keo đã góp phần quan trọng trong việc cung cấp nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến gỗ.
Giống keo tai tượng Úc xuất xứ Pongakii có thể đạt năng suất 20 - 25m3/ha/năm, keo lai từ 20 - 30m3/ha/năm, tùy lập địa nơi trồng rừng. Sau chu kỳ 10 - 12 năm, sản lượng ước đạt 220 - 250m3/ha và hầu hết các cây đã đạt đường kính trên 20cm, chiếm 50% trữ lượng. Lúc đó, rừng sẽ được bán theo giá gỗ xẻ, gỗ chế biến với giá trị từ 1,8 - 2 triệu đồng/m3, tức là khoảng 250 - 300 triệu đồng/ha, lợi nhuận bình quân từ 22 - 25 triệu/ha/năm, cao gấp 2 lần giá trị rừng gỗ nhỏ.
Tuy nhiên, đến nay, việc sử dụng giống keo đạt chất lượng vào trồng rừng sản xuất còn nhiều bất cập, người dân vẫn sử dụng nguồn giống không có nguồn gốc xuất xứ, chưa quan tâm đến chứng chỉ nguồn gốc cây giống, do vậy năng suất rừng trồng rất thấp, chỉ đạt 10 - 15m3/ha/năm.
Năm 2019, Việt Nam đã ký đàm phán Hiệp định VPA/FLEGT và Hiệp định thương mại EVFTA với EU. Gỗ, đồ mộc và đồ gia dụng của Việt Nam đã vào được thị trường khó tính này. Để nâng cao hiệu quả kinh tế của rừng trồng, bắt buộc người dân phải trồng rừng gỗ lớn và được cấp chứng chỉ FSC.
Theo Danviet
Giải quyết ô nhiễm môi trường hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải Ngày 5/9, tại cuộc họp với các bộ, ngành, địa phương liên quan nhằm giải quyết ô nhiễm môi trường hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết, công trình này rất quan trọng với nhiệm vụ chính là để trữ nước, tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp của...