Hàng Việt chịu gần 200 vụ kiện phòng vệ thương mại
Tính đến nay, Việt Nam đã bị các nước khởi xướng điều tra gần 200 vụ việc phòng vệ thương mại (PVTM) đối với nhiều mặt hàng, gồm cả các mặt hàng xuất khẩu quan trọng như thủy sản (tôm, cá tra), sắt thép, nhôm, gỗ,…
Thép là ngành hàng đang phải đối mặt khá nhiều các vụ kiện phòng vệ thương mại. Ảnh: N.Thanh
Thông tin cập nhật mới nhất từ Bộ Công Thương cho biết, thời gian qua số lượng các vụ việc điều tra, áp dụng các biện pháp bảo hộ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục gia tăng.
Tính đến nay, Việt Nam đã bị các nước khởi xướng điều tra gần 200 vụ việc PVTM đối với nhiều mặt hàng, gồm cả các mặt hàng xuất khẩu quan trọng như thủy sản (tôm, cá tra), sắt thép, nhôm, gỗ,…
Trong số đó, Việt Nam đã kháng kiện thành công đối với khoảng 43% vụ việc; đảm bảo nhiều mặt hàng của Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng như cá basa, tôm, tiếp tục được xuất khẩu sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU… với thuế suất bằng 0% hoặc ở mức rất thấp; khiếu kiện 5 vụ việc ra Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO, trong đó 3 vụ đã kết thúc với kết quả tích cực.
Ở chiều ngược lại về công tác khởi kiện, đến nay Việt Nam đã điều tra 19 vụ việc PVTM và đang xử lý hồ sơ khởi kiện của nhiều ngành hàng khác. Các sản phẩm bị điều tra, áp thuế tương đối đa dạng, từ nguyên vật liệu như sắt thép, kim loại, hóa chất, nhựa, phân bón cho đến hàng tiêu dùng như bột ngọt, đường.
Nhờ công cụ PVTM, nhiều doanh nghiệp thuộc một số ngành kinh tế đã cải thiện đáng kể tình hình sản xuất kinh doanh, thoát khỏi thua lỗ và từng bước ổn định sản xuất.
“Các biện pháp này cũng góp phần thực hiện các giải pháp liên quan tới xử lý 12 dự án thua lỗ của ngành Công Thương. Trong đó, một số doanh nghiệp đã cải thiện đáng kể tình hình sản xuất kinh doanh, thoát khỏi thua lỗ và từng bước ổn định sản xuất như Công ty Phân bón DAP-Vinachem (Đình Vũ – Hải Phòng), Công ty Thép Việt Trung, Công ty Thép Việt Ý, Công ty Thép Pomina…”, đại diện Bộ Công Thương nhấn mạnh.
Mặc dù đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong giai đoạn vừa qua, tuy nhiên Bộ Công Thương đánh giá, công tác PVTM của Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập mới.
Video đang HOT
Cụ thể, năng lực PVTM của nhiều ngành hàng, doanh nghiệp chưa được nâng cao. Hệ thống pháp luật, cơ chế triển khai, phối hợp giữa các cơ quan trong công tác xử lý các vụ việc PVTM nước ngoài còn bất cập. Cùng với đó, nguồn nhân lực thực hiện công tác PVTM chưa tương xứng với sự gia tăng về số lượng và độ phức tạp của các vụ việc khởi kiện và kháng kiện PVTM.
Xung quanh câu chuyện ứng phó với PVTM , trao đổi với phóng viên Báo Hải quan, ông Lê Triệu Dũng, Cục trưởng Cục PVTM (Bộ Công Thương) đánh giá, để giảm thiểu khả năng bị áp dụng biện pháp PVTM cần có một chiến lược tổng thể, dài hạn trong việc phát triển chuỗi sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng cho hàng xuất khẩu của Việt Nam.
“Bên cạnh việc chú trọng phát triển theo chiều sâu (tăng giá trị gia tăng trong nước), Việt Nam cũng cần theo dõi kỹ để cảnh báo sớm nếu như xuất khẩu của Việt Nam sang một số thị trường gia tăng nhanh đột biến”, ông Dũng nói.
Bộ Công Thương cho rằng, để khai thác hiệu quả các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới trong bối cảnh xu thế bảo hộ gia tăng, xung đột thương mại đang diễn biến phức tạp, các nước trên thế giới cũng đang tăng cường sử dụng các biện pháp PVTM để bảo vệ sản xuất trong nước, các cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp cần nâng cao nhận thức, năng lực PVTM.
Cụ thể như, cần nghiên cứu rà soát và hoàn thiện pháp luật PVTM của Việt Nam đảm bảo đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đồng bộ, phù hợp và thống nhất với các cam kết quốc tế đồng thời đơn giản hóa thủ tục cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, củng cố cơ chế phối hợp thống nhất, xuyên suốt xử lý các vụ việc PVTM giữa các bộ, ngành Trung ương và địa phương; giữa các cơ quan trong nước và ngoài nước; giữa các cơ quan quản lý nhà nước và hiệp hội; hoàn thiện việc kết nối cơ sở dữ liệu hải quan với cơ sở dữ liệu về PVTM để phục vụ công tác điều tra, áp dụng và ứng phó với các vụ việc PVTM…
Hàng Việt có thực sự bứt phá vào thị trường CPTPP, EVFTA?
Theo Bộ Công Thương, hiện thị phần hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tại các nước đối tác CPTPP phần lớn còn thấp; còn nhiều tiềm năng để tăng trưởng xuất khẩu, nâng cao thị phần tại thị trường các đối tác này.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh trình bày tại buổi làm việc
Chiều nay 23/9, tại buổi làm việc của Đoàn Giám sát, Ủy ban Thường vụ Quốc hội với Chính phủ, các bộ, thay mặt Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đã trình bày báo cáo về việc thực hiện các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam là thành viên.
Người đứng đầu ngành Công Thương đề cập khá chi tiết tới những kết quả đạt được sau quá trình hơn 1 năm thực thi Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và sau hơn 1 tháng thực thi FTA Việt Nam-EU (EVFTA).
Hiệp định CPTPP có hiệu lực từ ngày 14/1/2019. Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nêu rõ, trong năm 2019, kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam và 10 nước CPTPP đạt 77,4 tỷ USD, tăng 3,9% so với năm 2018.
Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang 10 nước CPTPP đạt 39,5 tỷ USD, tăng 7,2% so với năm 2018. Kim ngạch nhập khẩu từ 10 nước CPTPP đạt 37,9 tỷ USD, tăng 0,7% so với năm 2018. Như vậy, trong năm 2019, Việt Nam đã xuất siêu sang các nước CPTPP là 1,6 tỷ USD, trong khi năm 2018 Việt Nam nhập siêu từ các nước CPTPP là 0,9 tỷ USD.
Đáng chú ý, nếu chỉ tính kim ngạch xuất nhập khẩu sang 2 thị trường mới chưa có FTA là Canada và Mexico, trong năm 2019 Việt Nam xuất siêu hơn 5 tỷ USD, tương đương 50% tổng trị giá xuất siêu của Việt Nam.
Đây cung chinh la 2 đôi tac co quan hê FTA mơi (cac nươc khac trong khôi Việt Nam đa FTA trươc đo nên tac đông không ro rang băng). Xuất khẩu sang Canada tăng 29,8%, Mexico tăng 26,3%. Trong 6 nước đối tác, xuất khẩu sang Nhật Bản chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng xuất khẩu của Việt Nam (chiếm 8,4%), xếp thứ hai là Canada (1,6%).
Người đứng đầu ngành Công Thương cũng đánh giá, thị phần hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tại các nước đối tác CPTPP phần lớn còn thấp. Trong đó, cao nhất là tại Nhật Bản (chiếm 2,8%) và thấp nhất là Mexico (chiếm 0,6%).
Thị phần hàng Việt Nam tại các thị trường khác lần lượt là: 1,6% tại Australia; 1,3% tại New Zealand; 0,9% tại Singapore và Canada là 0,8%. Do vậy, còn nhiều tiềm năng để tăng trưởng xuất khẩu, nâng cao thị phần tại thị trường các đối tác này.
Bên cạnh góc độ kinh tế, thương mại, theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, việc thực thi các cam kết CPTPP đã giúp Việt Nam hoàn thiện khung khổ pháp lý trong nhiều lĩnh vực.
Cụ thể như, về môi trường, hiện nay, Việt Nam đang xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo vệ môi trường co tinh đên cac yêu câu cua công tac hôi nhâp kinh tê quôc tê.
Nông, thủy sản là những mặt hàng ghi nhận bước đầu tăng trưởng xuất khẩu khá tốt vào thị trường EVFTA. Ảnh: Nguyễn Thanh
Về lao động, để thực thi cam kết CPTPP, Chinh phu đã xây dựng và trình Quốc hội thông qua Bộ luật Lao động 2019 đảm bảo tính tương thích với các tiêu chuẩn lao động quốc tế.
Xây dựng hồ sơ trình phê chuẩn 2 Công ước cơ bản của Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) là Công ước số 98 về áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể và Công ước số 105 về Xóa bỏ lao động cưỡng bức và đã được Quốc hội phê chuẩn.
Về mua sắm của Chính phủ và thương mại điện tử, cho đến nay, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực thi các lĩnh vực này bao gồm Nghị định hướng dẫn riêng về các gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định CPTPP và chỉ dành cho các nước CPTPP và Nghị định hướng dẫn Luật An ninh mạng vẫn đang trong quá trình hoàn thiện để chuẩn bị ban hành.
Bên cạnh CPTPP, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cũng đề cập nhiều đến kết quả nổi bật đạt được sau hơn 1 tháng Hiệp định EVFTA thực thi.
Cụ thể, kể từ ngày 1/8/2020 (thời điểm EVFTA có hiệu lực) đến hết ngày 31/8/2020, các tổ chức được ủy quyền đã cấp trên 7.200 bộ C/O mẫu EUR.1 với kim ngạch 277 triệu USD đi 28 nước EU.
Các mặt hàng đã được cấp C/O mẫu EUR.1 chủ yếu là giày dép, thủy sản, nhựa và các sản phẩm từ nhựa, cà phê, hàng dệt may, túi xách, va li, rau quả, sản phẩm mây, tre, đan,...
Thị trường nhập khẩu đa phần là các nước có cảng biển và trung tâm phân phối, trung chuyển của EU như Bỉ, Đức, Hà Lan, Pháp, Vương quốc Anh. Trong đó, nhiều lô hàng đã tới thị trường EU, thông quan và được hưởng ưu đãi từ Hiệp định này.
Đánh giá Hiệp định EVFTA mới đi vào thực thi trong một khoảng thời gian ngắn nhưng đã thu được những kết quả khả quan, "tư lệnh" ngành Công Thương cũng nhấn mạnh, để tiếp tục nâng cao hiệu quả thực thi, Chính phủ sẽ tiếp tục rà soát để hoàn thiện các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi Hiệp định, đặc biệt là việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật nhằm bảo đảm phù hợp với Hiệp định EVFTA.
Xây dựng, vận hành hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại Hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại nhằm hỗ trợ doanh nghiệp Việt chủ động phòng ngừa và ứng phó với các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài, hướng tới xuất khẩu bền vững. Chế biến tôm đông lạnh xuất khẩu tại Công ty TNHH Thông Thuận, Khu công nghiệp Thành Hải (Ninh Thuận). (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)...