Hạn chế cấp bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn nước ngoài
Muốn vay vốn nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước phải tự vay, tự trả nợ theo đúng các điều kiện đã cam kết trong thỏa thuận vay, bình đẳng như doanh nghiệp khác, Chính phủ hạn chế bảo lãnh.
Bộ Tài chính sẽ báo cáo Quốc hội việc quản lý, giám sát việc huy động, sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước, nhất là việc vay nợ nước ngoài, và bảo lãnh chính phủ (BLCP) đối với doanh nghiệp nhà nước.
Bộ Tài chính khẳng định, trong giai đoạn 2011-2015, việc cấp BLCP đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, đặc biệt là đẩy nhanh tiến độ của các công trình trọng điểm cấp bách của Nhà nước do việc thu xếp vốn vay nước ngoài và trong nước của các doanh nghiệp thuận lợi hơn nhiều nhờ có BLCP.
Trong giai đoạn này, Bộ Tài chính đã cấp bảo lãnh vay trong và ngoài nước cho 35 chương trình, dự án, với tổng số vốn cam kết tương đương 15,6 tỷ USD. Trong đó, bảo lãnh vay vốn nước ngoài là 14 tỷ USD, với thời hạn trả nợ trung bình 12 năm. Tổng số tiền Chính phủ cam kết cấp bảo lãnh trong giai đoạn này đã gấp gần 3 lần giai đoạn 2007-2010 (tổng trị giá tương đương 5,75 tỷ USD).
Tuy nhiên, do gia tăng vay nợ, đặc biệt là vay nợ nước ngoài nên nghĩa vụ nợ dự phòng từ BLCP là một trong những áp lực lên nợ công và nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ trong các năm tiếp theo. Chính vì vậy, để đảm bảo kiểm soát an toàn nợ công trong giai đoạn 2016-2020, từ cuối năm 2015, Bộ Tài chính đã trình Quốc hội phương án giảm mức rút vốn ròng hàng năm của các dự án vay nước ngoài ở mức 1,5 tỷ USD và trong nước là 5.000 tỷ đồng nhằm giảm dần tác động của vốn vay được BLCP lên nợ công, đảm bảo mục tiêu đến năm 2020 dư nợ vay được Chính phủ bảo lãnh có thể ở mức 15,6% tổng dư nợ công và trong khoảng 10% GDP theo kịch bản đã trình Quốc hội (với giả định GDP dự kiến tăng 6,5-7%/năm và lạm phát khoảng 5%/năm).
Chính vì vậy, từ năm 2016, việc cấp BLCP cho các dự án đầu tư của doanh nghiệp được kiểm soát theo hướng bám sát chủ trương Nghị quyết 07-NQ/TW ngày 9/11/2016 của Bộ Chính trị về cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững và Nghị quyết 25/2016/QH14 của Quốc hội về kế hoạch tài chính quốc gia 5 năm giai đoạn 2016-2020.
Cụ thể, năm 2016, Bộ Tài chính chỉ cấp BLCP cho một dự án vay nước ngoài với trị giá bảo lãnh là 170 triệu USD. Năm 2017, Bộ Tài chính không thực hiện cấp BLCP cho bất cứ khoản vay mới nào kể cả một số dự án đăng ký từ năm 2016 đã dự kiến chuyển sang năm 2017 với tổng trị giá khoảng 2,8 tỷ USD. Năm 2018, Bộ Tài chính đã thẩm định và báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định cấp bảo lãnh cho Dự án Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 4 mở rộng của EVN và Sông Hậu 1 của PVN vay nước ngoài với trị giá là 1.614 triệu USD.
Nhờ được sử dụng nguồn vốn bảo lãnh chính phủ nên Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 4 mở rộng sớm đi vào hoạt động
Năm 2019 và năm 2020, thực hiện Chỉ thị 31/CT-TTg (ngày Ngày 08/11/2018) về việc chấn chỉnh, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong việc chấp hành pháp luật về ngân sách nhà nước, trong đó giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan trung ương, địa phương kiểm soát chặt chẽ các khoản vay; hạn chế tối đa việc cấp BLCP cho các khoản vay mới, Bộ Tài chính “đóng cửa” với hoạt động BLCP cho doanh nghiệp nhà nước vay vốn nước ngoài.
Bộ Tài chính khẳng định, việc hạn chế cấp BLCP cho các dự án mới đã dẫn đến tổng dư nợ được Chính phủ bảo lãnh có xu hướng giảm dần.
Bảo lãnh chính phủ giảm dần cả số tuyệt đối lẫn tương đối
2015
2016
2017
2018
Video đang HOT
2019
Lũy kế BLCP (triệu USD)
25.986,84
26.156,84
26.156,84
27.770,84
27.770,84
Dư nợ BLCP (triệu USD)
13.009,38
13.039,48
12.549,98
11.911,53
11.027,20
Dư nợ BLCP/dư nợ công (%)
17,60
16,10
14,80
13,50
12,20
Dư nợ BLCP/ GDP (%)
11,10
10,30
9,10
7,90
6,70
Hàng chục nghìn doanh nghiệp báo lỗ triền miên để trốn thuế
Hành vi gian lận thuế ngày càng diễn biến phức tạp, phạm vi ngày càng rộng, quy mô ngày càng lớn và thủ đoạn ngày càng tinh vi, gây thất thu thuế lớn.
Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) vừa công bố kết quả nghiên cứu "Trốn và tránh thuế của thuế thu nhập doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam". Kết quả nghiên cứu cho thấy, hành vi trốn và tránh thuế có thể xảy ra ở mọi doanh nghiệp, cả các tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp có vốn nước ngoài, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đều có động cơ trốn thuế như nhau.
Theo đó, trong giai đoạn 2010 - 2018, công tác thanh tra kiểm tra của ngành thuế đã phát hiện hàng chục nghìn doanh nghiệp vi phạm thuế thu nhập doanh nghiệp với số tiền thuế lên tới nhiều nghìn tỷ đồng mỗi năm. Đặc biệt, hiện tượng trốn và tránh thuế có xu hướng ngày càng gia tăng.
Hàng chục nghìn doanh nghiệp báo lỗ triền miên để trốn thuế (Ảnh minh họa: KT)
Hành vi chuyển giá ngày càng phức tạp, tinh vi
Theo VEPR, mức thuế thất thu ước tính cho cả 3 khu vực doanh nghiệp (FDI, doanh nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước) có thể dao động trong khoảng 13.300 - 20.700 tỷ đồng (chiếm khoảng 6,4 - 9,9% số thu thuế thu nhập doanh nghiệp), gấp khoảng 3 - 4 lần con số vi phạm phát hiện hàng năm bởi các cơ quan quản lý. Đặc biệt, các doanh nghiệp đa quốc gia trốn và tránh thuế nhiều hơn so với khu vực doanh nghiệp trong nước.
Theo Bộ Tài chính, từ năm 2012 đến 2017, quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI duy trì tăng trưởng ở mức cao, tốc độ tăng doanh thu cao hơn tốc độ tăng tài sản (22%) và tốc độ tăng vốn đầu tư của chủ sở hữu (14%). Lợi nhuận trước thuế năm 2017 của các doanh nghiệp FDI tăng hơn 19% so với năm 2016.
Tuy nhiên, có tới gần 10.600 doanh nghiệp FDI (trong tổng số 16.700 công ty) báo lỗ lũy kế (chiếm 63%) với trị giá lỗ lũy kế là 397.996 tỷ đồng. Thậm chí số liệu chỉ ra, hơn 2.673 doanh nghiệp lỗ mất vốn (chiếm 16%) với trị giá vốn chủ sở hữu là âm (-85.604 tỷ đồng). Tuy nhiên, trong số này có gần 1.600 doanh nghiệp vẫn mở rộng sản xuất kinh doanh.
"Tốc độ tăng về số lượng doanh nghiệp báo lỗ và lỗ lũy kế đã cao, nhưng tốc độ tăng của quy mô đầu tư và hoạt động của các doanh nghiệp này cũng cao. Điều đó cho thấy tình trạng chuyển giá của khu vực doanh nghiệp FDI ngày càng gia tăng và phức tạp", nhóm chuyên gia thuộc VEPR nhận định.
Nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra cách thức chuyển giá điển hình mà các doanh nghiệp FDI thường áp dụng là: thông qua kê khai cao giá hàng hóa, nguyên vật liệu và cung ứng các dịch vụ hành chính, kỹ thuật, pháp lý trong nội bộ tập đoàn (trường hợp của Adidas Việt Nam, Coca - Cola Vietnam, Pepsi Vietnam...) hoặc chuyển giá thông qua các khoản vay từ công ty mẹ, công ty liên kết với chi phí lãi vay luôn vượt quá mức thông thường để có thể chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (trường hợp của Công ty Trà Đài Loan, Công ty trà Kinh Lộ, Keangnam Vina...)
"Gần đây còn xuất hiện hiện tượng chuyển giá, chuyển lợi nhuận "ngược" từ nước ngoài vào Việt Nam của một bộ phận doanh nghiệp FDI trong nước được hưởng ưu đãi lớn về thuế suất cũng như thời gian miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Mỗi năm, tổng số tiền mà ngân sách nhà nước ưu đãi cho các doanh nghiệp chiếm khoảng 5,5 - 6% tổng thu ngân sách, trong đó ưu đãi thuế chiếm tới trên 80%", đại diện VERP chỉ rõ.
So với các loại hình doanh nghiệp khác, doanh nghiệp FDI được hưởng nhiều ưu đãi hơn, với mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong 15 năm, miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Thậm chí, một số doanh nghiệp FDI còn được áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong suốt thời gian thực hiện dự án. Tỷ lệ thuế thu nhập được miễn, giảm của doanh nghiệp FDI chiếm 76% trong tổng thuế thu nhập được miễn giảm.
Theo T.S Nguyễn Hoàng Oanh, Khoa Kinh tế học, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, trốn tránh thuế là hiện tượng phổ biến trong các nền kinh tế. Tại Việt Nam, các doanh nghiệp đa quốc gia có cơ hội thuận lợi nhất để lẩn tránh thuế, họ thành lập rất nhiều chi nhánh ở nước ngoài, chuyển lợi nhuận ở nơi có mức thuế suất cao sang mức thuế suất thấp.
Thất thu lớn cho ngân sách Nhà nước
Theo T.S Nguyễn Đức Thành, Cố vấn cao cấp của VEPR, hành vi gian lận thuế ngày càng diễn biến phức tạp, phạm vi ngày càng rộng, quy mô ngày càng lớn và thủ đoạn ngày càng tinh vi, gây thất thu thuế lớn.
Thống kê của Tổng cục Thuế cho thấy, trong giai đoạn 2010 - 2018, công tác thanh tra, kiểm tra của ngành Thuế đã phát hiện có tổng số 642.423 doanh nghiệp vi phạm thuế thu nhập doanh nghiệp với số thuế thu về hơn 35.900 tỷ đồng và giảm lỗ là 185.000 tỷ đồng.
Trong suốt giai đoạn này, số doanh nghiệp vi phạm tăng mạnh, từ khoảng 31.700 doanh nghiệp (năm 2010) lên 103.200 doanh nghiệp (năm 2017) và 95.900 doanh nghiệp (năm 2018). Lượng giảm lỗ cũng tăng từ 10.800 tỷ đồng (năm 2010) lên trên 40.900 tỷ đồng (năm 2018)...
Theo Viện VEPR, dù Việt Nam đã nỗ lực củng cố hành lang pháp lý về quản lý thuế nhưng khung pháp lý hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, và chưa theo kịp với thực tế diễn biến nhanh và phức tạp.
Việc các doanh nghiệp thực hiện nhiều thủ thuật chuyển giá, chuyển lãi thành lỗ để tránh thuế khiến cho Việt Nam thất thu một khoản lớn ngân sách đáng lẽ có được từ nguồn thuế thu nhập doanh nghiệp.
Đại diện VEPR cho rằng, Việt Nam cần có những điều chỉnh chính sách quan trọng để phòng và chống hành vi trốn và tránh thuế, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các khu vực doanh nghiệp, đồng thời hướng tới một hệ thống ngân sách bền vững.
"Việt Nam nên nhanh chóng nghiên cứu và áp dụng các biện pháp chống trốn và tránh thuế hiện đang áp dụng ở các nước tiên tiến trên thế giới. Bên cạnh đó, việc tăng cường công tác thanh kiểm tra, tăng mức xử phạt, và nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ thuế cũng rất cần thiết nhằm đảm bảo việc tuân thủ thuế của các doanh nghiệp", TS. Nguyễn Đức Thành khuyến nghị.
Để giảm động cơ trốn và tránh thuế qua kênh chuyển lãi vay trong dài hạn, đại diện VEPR cũng khuyến cáo Việt Nam nên có lộ trình thắt chặt tỷ lệ này đồng thời phối hợp chặt chẽ với các nước trong việc phòng chống trốn và tránh thuế, xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa vốn vay và vốn cổ phần như khuyến cáo của Mạng lưới Công bằng Thuế Toàn cầu./.
Cẩm Tú
Tiền Giang: Nhiều công ty tạm ngừng hoạt động do thiếu nguyên liệu Ngày 13-4, LĐLĐ tỉnh Tiền Giang cho biết đã có nhiều công ty tạm ngưng sản xuất hoặc cho công nhân (CN) nghỉ luân phiên, giãn ca do ảnh hưởng dịch Covid-19. Theo đó, Công ty CP Châu Âu (KCN Mỹ Tho) có gần 700 CN đã ngưng sản xuất đến hết tháng 5-2020. Ngoài ra, còn nhiều doanh nghiệp khác đang cho...