Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không
“Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” đã trở thành thành ngữ tự hào của dân tộc sau trận chiến trên bầu trời Hà Nội do đế quốc Mỹ phát động với âm mưu muốn “Hà Nội phải quỳ gối”. Lùi lại 40 năm, việc nhìn nhận cuộc chiến lịch sử này liệu có gì thay đổi? Liệu có bí mật gì mà bây giờ mới được nhắc tới?
Lưới lửa của Đại đội 2, Đơn vị quyết thắng pháo cao xạ bảo vệ Thủ đô bắn rơi máy bay Mỹ. Ảnh: T.L
Nếu các nhân chứng lịch sử bây giờ mà không hé lộ, thì càng về sau sẽ càng khó, bởi sự khắc nghiệt của thời gian, họ sẽ lần lượt ra đi. Trong chuyên đề này, chúng tôi sẽ cố gắng trả lời phần nào đó cho một số câu hỏi được đặt ra.
Bài 1: Đòn cân não của Mỹ
Ngày 14.12.1972, tại Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ Nixon khẳng định: “Sẽ sử dụng B.52 rải thảm bom vào Hà Nội để vừa hủy diệt vừa uy hiếp và bắt Hà Nội phải quỳ gối xin ký hiệp định do ta đưa ra”. Nhưng cuối cùng, thay vì “Hà Nội phải quỳ gối…”, chính đế quốc Mỹ đã phải chấp nhận ký Hiệp định Paris với những điều khoản mà chúng ta đưa ra.
Nhận định thiên tài của Bác Hồ
Cuối tháng 11.1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Tổng tư lệnh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng – khẳng định: Âm mưu của đế quốc Mỹ cho B.52 đánh thủ đô Hà Nội là hành động gây sức ép cuối cùng để buộc chúng ta phải nhân nhượng. Vì vậy, chúng ta phải cương quyết đánh thắng chúng trên bầu trời thủ đô.
Điều đặc biệt là, không phải đến những tháng cuối năm 1972 nóng bỏng ở trên chiến trường cũng như ở Hội nghị Paris, mà ngay từ đầu xuân 1968, Bác Hồ đã có những nhận định thiên tài. Lúc triệu tập đồng chí Phùng Thế Tài – Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN và đồng chí Đặng Tính – Chính ủy kiêm Tư lệnh Quân chủng PKKQ – đến báo cáo tình hình, Bác đã nhận định: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B.52 ra đánh Hà Nội rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước tình huống này càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị… Ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua, nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”.
Nixon: Thế giới nghĩ tôi là người điên rồ cũng được
Lật lọng sau khi tái đắc cử, ngày 14.12.1972, Tổng thống Nixon đã phê chuẩn kế hoạch ném bom Hà Nội, Hải Phòng và các địa phương khác của Bắc Việt Nam do Bộ Quốc phòng Mỹ đệ trình.
Nixon đặt tên cho chiến dịch ném bom lần này là Linebacker II. Làm việc với các phụ tá, ông ta cũng giải thích tại sao vẫn đặt tên là Linebacker: “Nếu Linebacker I chỉ sử dụng máy bay chiến thuật để dằn mặt Hà Nội, thì Linebacker II sẽ sử dụng B.52 rải thảm bom vào Hà Nội để vừa hủy diệt, vừa uy hiếp và bắt Hà Nội phải quỳ gối xin ký hiệp định do ta đưa ra”.
Video đang HOT
Tối ngày 18.12, sau khi ra lệnh thực hiện chiến dịch Linebacker II, Nixon đã mời một số phụ tá thân cận lên phòng làm việc ở tầng 2 của Nhà Trắng để giải thích tại sao lại cho B.52 đánh Hà Nội và Hải Phòng. Đồng thời ông ta cũng nói thẳng: Tôi không quan tâm nếu thế giới nghĩ tôi là người điên rồ khi cho ném bom và thả bom mìn trở lại. Nếu họ nghĩ như vậy thì càng tốt. Người Nga và người Trung Quốc có thể nghĩ rằng họ đang bắt tay với người điên. Điều này sẽ tác động lớn đến Hà Nội. Họ phải khuyên bảo đồng minh của họ ở Hà Nội. Nếu không muốn Hà Nội của họ bị hủy diệt bởi các trận mưa bom, thì phải chịu nhượng bộ với người điên.
Chính vì là “người điên”, tại phòng bầu dục, sau khi xem bản thảo bức công hàm “tối hậu thư” gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng do Henry Kissinger soạn thảo, Nixon ghi thêm một câu nối tiếp vào cuối bản thảo: “Đây là cơ hội cuối cùng dành cho Hà Nội để được hưởng hòa bình”.
14h (giờ Paris) ngày 18.12, Đại sứ Võ Văn Sung tại Cộng hòa Pháp nhận được công hàm này. Đây thực chất là một tối hậu thư với lời lẽ rất ngạo mạn và đe dọa. Phía Mỹ hẹn cố vấn Lê Đức Thọ phải quay lại Paris để ký hiệp định do Mỹ soạn thảo lại. Chúng ta đã không trả lời và chấp nhận sự thách thức của Mỹ trên mặt trận quân sự.
12h ngày 18.12 (giờ Hà Nội), Tổng thống Mỹ Nixon với tư cách là tổng tư lệnh quân đội đã ấn nút đỏ, chiến dịch Linebacker II bắt đầu. Ngay sau đó, máy bay B.52 cùng các máy bay tiêm kích từ các ngả bắt đầu hướng về Hà Nội. Cuộc chiến 12 ngày đêm trên bầu trời Hà Nội bắt đầu.
* Tham khảo tài liệu của Ban Tuyên giáo và cuốn “Vòng cung lửa trên bầu trời Hà Nội”.
Đầu tháng 10.1972, ta đưa ra dự thảo hiệp định “Về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” và phía Mỹ chấp thuận bản dự thảo này. Nhưng ngay sau khi tái cử, Nixon đã trắng trợn lật lọng, đòi ta phải sửa chữa 126 điểm mà trước đó phía Mỹ đã hoàn toàn nhất trí. Kissinger tuyên bố ngừng đàm phán vô thời hạn. Ngày 17.12, Tổng thống Nixon ra lệnh tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược vào miền Bắc với tên gọi “Chiến dịch Linebacker II”.
Theo LD
Hà Nội đánh "quái vật" B52 như thế nào?
40 năm đã qua đi nhưng ký ức về chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên phủ trên không" vẫn còn nguyên vẹn và nóng hổi trong trái tim những nhân chứng- những anh hùng của 12 ngày đêm ấy.
Sáng nay, 10/12, buổi tọa đàm trực tuyến kỷ niệm 40 năm chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên phủ trên không" (12/1972 - 12/2012) diễn ra với sự góp mặt của những anh hùng một thời làm nên sự kiện hào hùng ấy.
Dự báo của Bác và thất bại của Mỹ
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ đã hứng chịu nhiều thất bại, 3 đời tổng thống Mỹ bị đổ, những chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, Chiến tranh cục bộ và Chiến tranh đặc biệt đều đã bị phá sản.
Và con át chủ bài là B52 đã được Mỹ dùng đánh Hà Nội hòng ngăn chặn sự chi viện của ta cho miền Nam và uy hiếp nhân dân ta. Đế quốc Mỹ buộc phải đánh Hà Nội vì đây là trung tâm chính trị, kinh tế, đầu não chỉ huy cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Trung tướng Nguyễn Xuân Mậu, Nguyên Phó Chính ủy Quân chủng Phòng Không - Không quân, kể: Trước đó, Bác Hồ đã có những dự kiến rất sớm để đánh thắng B52. Năm 1965, khi Mỹ đem quân thả xuống Bến Cát, tây bắc Sài Gòn, Bác đã nói trước sau Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội. Sau 19 ngày Mỹ đem thả bom ở đèo Mục Giạ, tây bắc Quảng Bình, Bác lại nói: Dù Mỹ có B57, B52 hay B gì đi nữa, ta cũng đánh mà đánh là nhất định thắng. Bác cũng nói Mỹ trước sau cũng sẽ thua, nhưng chúng chỉ chịu thua trên bầu trời Hà Nội.
Tên lửa SAM 2 của ta luôn sẵn sàng chiến đấu (Ảnh tư liệu)
Để có cơ sở chuẩn bị, trước đó Quân chủng Phòng không - Không quân đã đưa trung đoàn tên lửa 238, 226 vào Vĩnh Linh, đã bắn được B52, từ đó rút kinh nghiệm, biên soạn sách cẩm nang đánh B52. Phương án tác chiến từ năm 1968 rồi cuối tháng 11/1972, phương án cuối cùng đánh B52 đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp phê chuẩn.
"Từ đó, chúng tôi lập kế hoạch đánh B52 và hoàn toàn chủ động. Đêm 18/12, lúc 19h15 phút, chúng tôi được tin B52 cất cánh từ Guam, toàn thể quân chủng và nhân dân sẵn sàng. 20h13 phút, tiểu đoàn 59 tên lửa thuộc trung đoàn 261 đã bắn rơi chiếc B52 đầu tiên, rơi ở cánh đồng Chuôm, Phủ Lỗ, Kim Anh (nay là Sóc Sơn, Hà Nội). Tiểu đoàn 77 thuộc trung đoàn 257 bắn rơi B52 tại chỗ. Đêm 18/12, toàn quân chủng và nhân dân đánh thắng B 52 trận đầu, lập nên Điện Biên Phủ trên không", tướng Mậu cho biết.
Phải cất cánh bằng mọi giá
Cẩm nang đánh B52 đã được bộ đội bên tên lửa rút ra những bài học, viết thành sách thì đối với bộ đội không quân lại có phần khó khăn hơn.
Kể về sự nguy hiểm của "quái vật" B52, Trung tướng Phạm Tuân, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Phi công đoàn Không quân Sao Đỏ, cho biết: B52 là máy bay ném bom chiến lược tầm xa, cự ly bay hàng chục ngàn km, mang tới 30 tấn bom, xen kẽ bom tấn, bom tạ, bom bi, một tốp 3 chiếc B52 có thể san bằng diện tích 2km2.
Bom tấn phá hầm ngầm, bom tạ phá hầm trú ẩm, bom bi sát thương người khi không còn chỗ trú ẩn. Ngoài ra, B52 còn sử dụng cả tên lửa, đồng thời, được yểm trợ rất mạnh, lại bay ban đêm, gây nhiễu ra đa, gây nhiễu mục tiêu, ngoài ra, còn có tên lửa mồi, nếu chúng ta bắn tên lửa thì thả tên lửa mồi, đằng sau, lại được trang bị súng phía đuôi.
Máy bay B52 đánh phá Hà Nội
Một trong những khó khăn lớn nhất đối với bộ đội Không quân là khi đó, là các sân bay chiến đấu của ta bị phá hủy rất nặng nề, làm cách nào để máy bay ta có thể cất cánh trong mọi tình huống mà không bị địch phát hiện, không hề đơn giản.
Theo Trung tướng Phạm Tuân, chính thời điểm như vậy mới thể hiện trí tuệ, sáng tạo của dân tộc, của không quân nhân dân Việt Nam. "Chúng ta phải cất cánh trong những điều kiện khó khăn, và mệnh lệnh là khi B52 vào, phải cất cánh lên được để đánh. Điều này đòi hỏi ý chí, nhưng ý chí không đủ, ta phải sáng tạo. Ví dụ ta làm rất nhiều sân bay dự bị, hoặc cất cánh trên đường băng phụ. Thậm chí, có khi chúng tôi đeo thêm 2 quả tên lửa bổ trợ, và khi máy bay đeo thêm phải cất cánh trên đường băng chỉ 200m so với đường băng 1km thông thường", tướng Phạm Tuân kể.
Làm thế nào để phi công của ta bằng cách nào để có thể tiếp cận được với B.52? Theo Trung tướng Phạm Tuân, trong 12 ngày đêm, bầu trời Hà Nội, mỗi đêm có tới 200-300 máy bay địch đánh phá. "Lúc đó, chúng tôi không sợ bị bắn rơi nhưng mỗi nơi bị chậm đi một chút, mình không đuổi được B52. Ví dụ, địch đánh vào sân bay, mình chậm đi một chút, trên đường máy bay yểm trợ đuổi mình chậm thêm chút... Nếu chậm một phút, máy bay B52 có vận tốc 900 km/h thì đã bay được 15 km, thế làm sao mà mình đuổi được!", Anh hùng Phạm Tuân nói.
Chiếc máy bay Mig 21 do Anh hùng Phạm Tuân điều khiển đã bắn rơi pháo đài bay B52 của Mỹ năm 1972. (Ảnh tư liệu)
Để khắc phục, một lần nữa đòi hỏi sự sáng tạo của bộ đội. Trước đó, "anh cả" Liên Xô sản xuất máy bay và dạy chúng ta cách bay thế nào nhưng khi đối diện với thực tế bị nhiễu, phi công ta rất khó biết chính xác B52 nằm ở chỗ nào.
"Ở đây là bản lĩnh của phi công, phải phán đoán được tình huống như thế nào. Trận đánh B52 của tôi rất nhanh, tiếp cận B52 chưa đầy một phút. Khi tiếp cận đằng sau B52 với tốc độ rất cao, 1.500 km/h so với tốc độ của B52 là 900 km/h nên đã vượt qua tất cả.
Vượt qua phải bao gồm tất cả nỗ lực, từ tổ chức chỉ huy, sân bay cất cánh, dẫn đường, để có được điều kiện tốt nhất. Lúc đó, mệnh lệnh là không đánh F4, chúng ta vượt qua nó, dành tên lửa để đánh B52. Hiệp đồng với binh chủng tên lửa như thế nào, khi tên lửa bắn F4 chúng tôi tranh thủ để vượt qua. Rồi lựa chọn hướng vào tiếp cận B52 như thế nào. Tất cả tạo nên điều kiện thuận lợi nhất đánh B52. Tôi bắn B52 xong rồi mà F4 vẫn ở đằng sau nhưng không làm gì được", người phi công anh hùng kể.
Theo 24h
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và câu hỏi bất ngờ Cuối năm 1972, cả thế giới lo âu nhìn về Hà Nội, thế nhưng đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Bộ Tổng tư lệnh, Quân chủng Phòng không - Không quân đã dự kiến cho những phương án thua trên bầu trời Hà Nội của không quân Mỹ. Theo hồi ức của thượng tướng Phùng Thế Tài, nguyên Tư lệnh Quân chủng Phòng...