Góc khuất ngân hàng: Nhiều khoản lẽ ra là nợ xấu nhưng ghi lãi dự thu
Các khoản lãi, phí phải thu – nơi che giấu nợ xấu lý tưởng của nhiều nhà băng đang có dấu hiệu tăng mạnh trong 9 tháng của năm 2019.
Nợ xấu hay lợi nhuận?
Đến thời điểm này, đã có gần 20 ngân hàng công bố báo cáo tài chính quý III/2019, điểm chung là lãi dự thu đều tăng mạnh. Lãi dự thu tăng theo tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng là điều bình thường, song tại một số ngân hàng, tỷ lệ lãi dự thu quá lớn, hoặc tốc độ tăng quá mạnh sẽ là những cảnh báo cho các nhà đầu tư.
Trong một số trường hợp, lãi dự thu không đơn thuần là các khoản lãi ngân hàng dự tính thu được trong tương lai, mà chính là nợ xấu tiềm ẩn.
9 tháng của năm, Ngân hàng SeABank công bố lợi nhuận trước thuế tăng mạnh so với cùng kỳ năm ngoái (đạt 683 tỷ đồng). Thế nhưng, điểm cần lưu ý là lãi dự thu của ngân hàng cũng tăng rất mạnh, từ 2.842 tỷ đồng, lên 4.194 tỷ đồng, tức tăng gần 48%.
Nhiều ngân hàng công bố lãi dự thu 9 tháng của năm 2019 ở mức cao.
Tại BacABank, 9 tháng của năm, ngân hàng lãi 646,2 tỷ đồng (hoàn thành 70% kế hoạch năm), nợ xấu tính đến cuối tháng 9 chỉ 503,5 tỷ đồng (0,72%) so với đầu năm. Tuy nhiên, lãi dự thu lại tăng gần 1.000 tỷ đồng so với cùng kỳ năm ngoái và đã chạm ngưỡng ngấp nghé 4.000 tỷ đồng. VietBank cũng tăng lãi dự thu rất mạnh. 9 tháng của năm, lãi dự thu của ngân hàng này là 1.566 tỷ đồng, tăng 74,2% so với cùng kỳ.
Một số ngân hàng khác, mức độ tăng lãi dự thu tuy chậm hơn, song cũng chiếm tỷ trọng rất lớn. Cụ thể, Ngân hàng TMCP Quân đội có lãi dự thu 4.086 tỷ đồng, tăng hơn 19% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong số các ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính, Sacombank dẫn đầu về lãi dự thu, song diễn biến lãi dự thu của ngân hàng này hết sức tích cực. Các khoản lãi, phí phải thu tại thời điểm ngày 30/9 là 20.610 tỷ đồng, giảm khá nhiều so với mức 23.154 tỷ đồng hồi đầu năm. Tiến trình xử lý nợ xấu tích cực đang khiến lợi nhuận ngân hàng này cải thiện ngày một tích cực.
Tại sao ngân hàng “neo” lãi dự thu?
Dự thu lãi là nghiệp vụ phù hợp với nguyên tắc kế toán, song thực tế, một số ngân hàng đang đánh giá quá lạc quan (hoặc cố tình đánh giá lạc quan) về khả năng thu hồi lãi trong tương lai, để ghi nhận nguồn thu này vào tổng doanh thu hoạt động. Thực tế, rất nhiều khoản tính lãi dự thu không có khả năng thu hồi tiền gốc, chưa nói đến lãi.
Video đang HOT
Một chuyên gia ngành ngân hàng khẳng định, trong báo cáo tài chính của các ngân hàng, có nhiều khoản lẽ ra là nợ xấu, nhưng lại được ghi nhận thành lãi dự thu. Lý do khiến các ngân hàng neo lãi dự thu cao là để “né” nợ xấu.
“Một số ngân hàng nhỏ, lợi nhuận cả năm chỉ vài chục đến vài trăm tỷ đồng, trong khi một khoản nợ xấu có khi đã lên tới hàng trăm tỷ đồng. Nếu khoản nợ xấu này được tính vào nguồn thu, ngân hàng sẽ tiếp tục thu lãi, nhưng nếu bị chuyển thành nợ xấu, thì ngân hàng phải tăng trích lập dự phòng, khi đó lợi nhuận sẽ bị hao mòn, thậm chí âm. Hiện rất nhiều ngân hàng vẫn chưa xử lý xong nợ tại Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam ( VAMC), nợ xấu nội bảng lại có xu hướng tăng lên. Vì vậy, các ngân hàng để lãi dự thu ở mức lớn là điều dễ hiểu”, vị chuyên gia này cho biết.
Trong bối cảnh hệ thống ngân hàng Việt Nam đang tái cơ cấu, việc ngân hàng liên tục “neo” lãi dự thu là điều dễ hiểu. Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của Quốc hội cũng đã cho phép ngân hàng giãn thời gian xử lý nợ xấu bằng lãi dự thu. Tuy nhiên, thực tế có những khoản “dự thu” đã rất nhiều năm, nhưng ngân hàng vẫn không thu được. Theo nguyên tắc, những khoản dự thu như vậy, ngân hàng phải thoái dần, song thực tế các ngân hàng vẫn cứ tiếp tục neo từ năm này sang năm khác trên báo cáo tài chính. Bởi nếu thoái lãi dự thu (bán nợ, xử lý nợ), lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm mạnh.
TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế khẳng định: “Xử lý nợ xấu chậm một phần là do các ngân hàng không muốn mất lãi dự thu. Dù Nghị quyết 42 đã cho phép các ngân hàng được ghi một số khoản nợ xấu vào lãi dự thu và hạch toán dần (thay vì hạch toán ngay), song nhiều ngân hàng vẫn chưa dám làm vì khi đó lợi nhuận sẽ sụt giảm rất mạnh”.
Nhiều ý kiến cho rằng, Ngân hàng Nhà nước nên đưa ra lộ trình thích hợp và có quy định chung về thoái lãi dự thu cho các ngân hàng (có thể có ngoại lệ riêng cho các ngân hàng tái cơ cấu). Việc phải bóc tách tỷ lệ lãi dự thu có nguy cơ biến thành nợ xấu sẽ giúp cơ quan quản lý có thể giám sát kịp thời về sức khỏe của các nhà băng./.
Hà Tâm
Theo Infomoney
Xử lý được lượng lớn, vẫn còn khó khăn với nợ xấu kẹt tại các vụ án
Việc xử lý, thu hồi nợ và tài sản bảo đảm của các ngân hàng mua bắt buộc khó khăn do phần lớn tài sản bảo đảm đều đang bị kê biên, liên quan đến các vụ án, hồ sơ pháp lý chưa hoàn chỉnh.
Tỷ lệ nợ xấu đã giảm nhanh và thực chất hơn trong những năm gần đây.
Đã xử lý được 968,89 nghìn tỷ đồng nợ xấu
Tại báo cáo được gửi đến Quốc hội về kết quả xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế phát sinh nợ xấu mới; tự xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc khách hàng trả nợ; bán, phát mãi tài sản bảo đảm của khoản nợ; bán nợ theo cơ chế thị trường; sử dụng dự phòng rủi ro; tích cực áp dụng các biện pháp xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42.
Đồng thời, các tổ chức tín dụng tích cực thực hiện các biện pháp nâng cao năng lực quản trị rủi ro và chất lượng công tác thẩm định tín dụng; triển khai các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát nợ xấu và xử lý nợ xấu.
"Nhờ đó, nợ xấu nội bảng của hệ thống các tổ chức tín dụng tiếp tục được xử lý, kiểm soát và duy trì ở mức dưới 3%. Tính từ năm 2012 đến cuối tháng 8/2019, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 968,89 nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong đó nợ xấu do các tổ chức tín dụng tự xử lý là 629,2 nghìn tỷ đồng (chiếm 64,94% tổng nợ xấu xử lý), còn lại là bán nợ (bao gồm bán nợ cho VAMC và tổ chức, cá nhân khác) chiếm 35,06%. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến cuối tháng 8/2019 là 1,98%", Thống đốc cho biết.
Cũng theo số liệu được người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước đưa ra, tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng tính đến tháng 8/2019 ở mức 4,84%, giảm mạnh so với mức 10,08% cuối năm 2016, mức 7,36% cuối năm 2017 và mức 5,85% cuối năm 2018.
Về kết quả xử lý nợ xấu được xác định theo Nghị quyết 42, Thống đốc cho biết, lũy kế từ 15/8/2017 đến cuối tháng 8/2019, toàn hệ thống tổ chức tín dụng đã xử lý được 236,8 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 (không bao gồm sử dụng dự phòng rủi ro và khoản nợ bán cho VAMC thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt).
Trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng đạt 137,7 nghìn tỷ đồng; xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán xác định theo Nghị quyết 42 là 47,97 nghìn tỷ đồng; xử lý các khoản nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt là 51,12 nghìn tỷ đồng.
Bên cạnh đó, đến thời điểm cuối tháng 08/2019, các tổ chức tín dụng đã sử dụng 123,89 nghìn tỷ đồng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu nội bảng.
Nợ xấu vẫn bị kẹt ở các vụ án
Theo đánh giá của người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu đã xử lý được một bước quan trọng nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với an toàn, hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Nợ xấu hiện đang tập trung chủ yếu ở các tổ chức tín dụng yếu kém, tuy nhiên còn gặp nhiều khó khăn do để xử lý dứt điểm nợ xấu, thu hồi tài sản không sinh lời của các tổ chức tín dụng tổ chức tín dụng này đòi hỏi phải có cơ chế phân bổ tổn thất, giảm nhẹ gánh nặng tài chính bằng chính sách tài chính phù hợp để tổ chức tín dụng hấp thụ dần tổn thất, vượt qua được khó khăn tài chính.
"Bên cạnh đó, việc xử lý, thu hồi nợ và tài sản bảo đảm của các ngân hàng mua bắt buộc khó khăn do phần lớn tài sản bảo đảm cho các khoản nợ đều đang bị kê biên, liên quan đến các vụ án, hồ sơ pháp lý chưa hoàn chỉnh", báo cáo của Thống đốc cho biết.
Cụ thể, về áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm, ngày 15/5/2018, Hội đồng Thẩm phán đã ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu...
Tuy nhiên, hiện nay, số lượng các vụ việc xử lý nợ xấu thông qua thủ tục rút gọn tại Tòa án còn hạn chế, phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả thu hồi nợ.
Về việc hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, hiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật giải thích cụ thể về việc "ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án" theo quy định tại Điều 14 Nghị quyết số 42.
Do đó, việc có hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu hay không sẽ phụ thuộc nhiều vào quan điểm của cơ quan tiến hành tố tụng.
Về cơ chế tiếp cận thông tin về tình trạng tài sản bảo đảm, hiện Tòa án, Thống đốc cho biết, Cơ quan thi hành án dân sự không có hệ thống dữ liệu cho phép các tổ chức tín dụng trích xuất, tra cứu thông tin tài sản có liên quan đến vụ việc đang được thụ lý giải quyết.
Đồng thời, chưa có hướng dẫn về cơ chế xác định sớm hữu hiệu trong quá trình thẩm định, để xác định tài sản nào đang tranh chấp, tài sản nào đang phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, dẫn đến cách hiểu về tài sản tranh chấp giữa các cơ quan tố tụng tại nhiều nơi, nhiều cấp khác nhau, gây khó khăn khi áp dụng các biện pháp xử lý tài sản theo Nghị quyết số 42.
Theo đó, nhằm tạo điều kiện triển khai có hiệu quả Nghị quyết 42 và Đề án 1058, Ngân hàng Nhà nước đề xuất Quốc hội yêu cầu Tòa án nhân dân tối cao sớm có văn bản gửi cơ quan tòa án địa phương yêu cầu các đơn vị này ưu tiên áp dụng các thủ tục rút gọn được quy định tại Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP khi giải quyết các vụ án liên quan đến xử lý nợ xấu.
Tòa án nhân dân tối cao xem xét, phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp (Tổng cục Thi hành án dân sự) sớm có văn bản chỉ đạo về việc hoàn trả các tài sản bảo đảm là vật chứng của vụ án hình sự sau khi đã hoàn tất các thủ tục xác minh chứng cứ quy định tại Nghị quyết 42.
Đồng thời, yêu cầu Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Cơ quan thi hành án dân sự sớm xây dựng hệ thống dữ liệu liên quan đến các vụ việc đang được thụ lý giải quyết và cho phép các tổ chức tín dụng được tra cứu, trích xuất các thông tin liên quan từ hệ thống dữ liệu này.
TRẦN THÚY
Theo Bizlive.vn
Tỷ lệ nợ xấu giảm xuống còn 4,84% nhờ xử lý gần 1 triệu tỷ đồng từ năm 2012 đến nay "Tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống TCTD tính đến tháng 8/2019 ơ mưc 4,84%, giảm mạnh so với mức 10,08% cuối năm 2016, mức 7,36% cuối năm 2017 và mức 5,85% cuối năm 2018", lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết. Tỷ lệ nợ...