Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền – Kỳ 6: Từ thảm sát Gạc Ma đến mộng bá chủ biển Đông
Sự kiện Gạc Ma”là cuộc thảm sát do lính Trung Quốc hung hăng gây ra. Trung Quốc không bao giờ có tình nghĩa đồng chí, anh em với Việt Nam gì cả mà họ sẵn sàng tiêu diệt ta vì quyền lợi của họ”, chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm khẳng định.
Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm – Ảnh: Trung Hiếu
Liên quan đến sự kiện Gạc Ma và cuộc đấu tranh bảo vệ Trường Sa của quân ta, Thanh Niên Online có cuộc trao đổi với chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm, người trực tiếp phụ trách tác chiến của Quân chủng Hải quân khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đảo Gạc Ma ngày 14.3.1988.
- Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm: Từ rất lâu, Trung Quốc có ý đồ muốn chiếm các đảo ở Trường Sa để làm chủ vùng biển phía Đông. Gạc Ma, Châu Viên, Chữ Thập là các đảo nằm ở giữa Trường Sa và giữa biển Đông. Cho nên âm mưu của Trung Quốc chiếm các đảo này là được tính toán từ trước. Các đảo mà Trung Quốc đang chiếm đóng có vị trí “cài da báo” với những đảo do Việt Nam quản lý.
Việc chiếm giữ các đảo này không những gây sức ép với Việt Nam và Philippines mà còn tạo chỗ đứng chân tại biển Đông ở phía Nam. Khi có lực lượng ở đây, Trung Quốc sẽ khống chế toàn bộ vùng biển từ eo biển Malacca qua Singapore, đi qua Đông Bắc Á, rồi Bắc Mỹ.
Sau năm 1988, khi chiếm xong đảo Gạc Ma, Trung Quốc bắt đầu xây dựng căn cứ trên đảo này. Hiện Trung Quốc đang tăng cường xây dựng ở Gạc Ma, rồi sắp tới là Chữ Thập, Châu Viên để biến ba đảo này thành một cụm đảo chi viện cho nhau như họ từng tuyên bố.
Khi ba đảo này trở thành một cụm thì toàn bộ căn cứ, cơ sở đóng quân ở Trường Sa của Việt Nam sẽ bị uy hiếp. Thậm chí các đảo của Philippines, Malaysia cũng bị đe dọa.
* Ông đã ra Trường Sa bao nhiêu lần?
- Tôi đã có hai lần ra Trường Sa và phần lớn đi hết các đảo ở quần đảo này. Còn trước đó tôi ở Bộ tư lệnh Hải quân ở Hải Phòng, làm tham mưu phó phụ trách tác chiến theo dõi rất sát về tình hình Trường Sa.
Từ rất lâu, Trung Quốc có ý đồ muốn chiếm các đảo ở Trường Sa để làm chủ vùng biển phía Đông. Gạc Ma, Châu Viên, Chữ Thập là các đảo nằm ở giữa Trường Sa và giữa biển Đông. Cho nên âm mưu của Trung Quốc chiếm các đảo này là được tính toán từ trước. Các đảo mà Trung Quốc đang chiếm đóng có vị trí ‘cài da báo’ với những đảo do Việt Nam quản lý
Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm
* Ông có thể kể về cuộc sống của bộ đội, hải quân ở Trường Sa sau 1975 và những năm mà ông phụ trách tác chiến của Bộ tư lệnh Hải quân?
- Năm 1984, ông Giáp Văn Cương thay ông Đoàn Bá Khánh làm tư lệnh Quân chủng Hải quân.
Khi nhận nhiệm vụ tư lệnh, thượng tướng Giáp Văn Cương đã đi một loạt các đảo ở Trường Sa, sau đó đề xuất với Bộ Quốc phòng về việc tăng thêm quân tại nhiều vị trí ở Trường Sa mà lúc đó ta chưa đóng. Bộ Quốc phòng và Quân chủng Hải quân đồng ý cho thêm quân đóng ở các đảo An Bang, Phan Vinh, Đá Tây…
Cuộc sống của bộ đội ở Trường Sa cuối những năm 70 và đầu 80 của thế kỷ trước rất gian khổ, thiếu thốn trăm bề. Thiếu thốn nhất vẫn là nước ngọt.
Hồi đó các đảo chưa xây dựng được hầm ngầm, chưa có dự trữ nước ngọt nên chủ yếu dựa vào các tàu tiếp tế. Mà hồi đó rất ít tàu tiếp tế có khả năng đi ra Trường Sa. Bộ đội ở Trường Sa còn thiếu rau xanh, quần áo. Thông tin liên lạc chủ yếu là đánh morse.
Sau này nhờ sự quan tâm của nhà nước, điều kiện cuộc sống của bộ đội ở Trường Sa dần được cải thiện.
Video đang HOT
Hi sinh ở Gạc Ma
Trung Quốc tăng cường xây dựng căn cứ trên đảo Gạc Ma – Ảnh: Mai Thanh Hải
* Do có vị trí quan trọng nên Trung Quốc luôn có âm mưu chiếm đóng Trường Sa để độc chiếm biển Đông. Vậy sau năm 1975 và những năm về sau, Trung Quốc có những hành động gì ở Trường Sa?
- Ngày 29.3.1975, khi giải phóng xong Đà Nẵng, đại quân của ta đang tiến về phía Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị với Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quan tâm tới các đảo ở quần đảo Trường Sa. Đại tướng đề nghị giao cho Quân chủng Hải quân và Quân khu 5 tổ chức lực lượng giải phóng Trường Sa.
Đầu tháng 4.1975, ta đã điều lực lượng vào Đà Nẵng. Lúc đó ông Hoàng Hữu Thái, Phó tư lệnh, tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân, được cử vào Đà Nẵng để tổ chức lực lượng đi ra Trường Sa.
Sau này, một số anh em trực tiếp tham gia chiến dịch giải phóng Trường Sa cho biết khi ta giải phóng đảo Song Tử Tây, rồi Sơn Ca, đêm hôm sau có một số tàu không treo cờ lai vãng Song Tử Tây. Ban ngày, các tàu này cách đảo 2 – 3 hải lý nhưng khi nhìn thấy cờ Việt Nam treo ở đó rồi nên họ bỏ đi.
Tôi được biết một số lãnh đạo Trung Quốc từng phê phán lực lượng hải quân nước này nhát gan. Nếu hải quân Trung Quốc nhanh tay thì lúc đó các đảo ở Trường Sa có lẽ đã thuộc về Trung Quốc. Chính báo chí Trung Quốc chê hải quân nước này nhát gan để đến giờ họ hầu như “trắng tay” ở Trường Sa.
Cuối năm 1986 sang 1987, Trung Quốc cho quân trinh sát tất cả các bãi đá ngầm ở Trường Sa. Đầu tiên, họ dùng tàu cá sau đó là tàu quân sự nhưng không treo cờ hải quân để trinh sát. Ban đêm, họ thả người xuống các đảo khảo sát, rồi đặt bia chủ quyền lên một số đảo. Ban ngày, bộ đội ta dùng thuyền cao su đi kiểm tra, phát hiện nhiều bia chủ quyền do Trung Quốc thả ở một số đảo.
Tất cả những thông tin này đều được báo về Bộ Tư lệnh Hải quân. Từ đó, Bộ Tư lệnh Hải quân giao cho cơ quan chúng tôi vạch ra một kế hoạch tác chiến bảo vệ Trường Sa. Kế hoạch đó được đích thân tư lệnh Giáp Văn Cương báo cáo cho Trung ương vào tháng 8.1987.
Tháng 9.1987, kế hoạch được triển khai. Chúng ta tăng cường quân ở các đảo mà có khả năng Trung Quốc sẽ đánh chiếm. Tình hình biển Đông cuối 1987 đầu 1988 rất căng thẳng. Tư lệnh Giáp Văn Cương đã điều sở chỉ huy các cơ quan hải quân từ Hải Phòng vào Cam Ranh (Khánh Hòa).
Ngày đêm bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc – Ảnh: Trung Hiếu
Thời gian này, tướng Cương làm Tư lệnh Quân chủng Hải quân kiêm Tư lệnh vùng 4 hải quân. Trước đó, Phó tư lệnh Quân chủng Hải quân Đoàn Bá Khánh được cử vào Cam Ranh làm chỉ huy trưởng vùng 4 hải quân.
Sau khi kế hoạch bảo vệ Trường Sa được thông qua, tháng 10.1987, chính tôi đã viết điện cho tư lệnh Giáp Văn Cương với nội dung vùng 4 chuẩn bị ngay lực lượng triển khai đóng các điểm như Chữ Thập, Đá Tây, Châu Viên, Tiên Lữ. Một đảo sẽ có 3 – 4 tàu để ra đóng giữ.
Tuy nhiên, lúc đó, tàu của lực lượng hải quân mỏng, sóng gió to nên phần lớn tàu không đi được. Cuối tháng 12.1987, vùng 4 hải quân mới cho quân ra đóng ở Đá Tây.
Tôi còn nhớ đại tá Nguyễn Văn Thư, tham mưu trưởng vùng 4 hải quân, đánh điện về với nội dung: “Báo cáo ông chủ, chúng tôi đã triển khai ổn định cái chợ (từ lóng để chỉ các đảo ở Trường Sa mà hải quân dùng để bảo đảm bí mật thông tin – PV). Mọi việc đều tốt đẹp”.
Nghe báo cáo xong, tướng Cương đôn đốc phải đóng quân ở Chữ Thập nhưng tàu ra 4 chiếc thì có 3 chiếc bị hư. Trong khi đó, Trung Quốc đã cho quân ra đóng ở Chữ Thập vào tháng 1.1988, ở Châu Viên vào tháng 2.1988. Khi mình đưa lực lượng ra đóng ở Chữ Thập, Trung Quốc cho tàu ra cản không cho mình vào. Ta và Trung Quốc quần nhau như vậy khoảng vài ngày. Tình hình ở Châu Viên tương tự.
Ở Gạc Ma, đêm 13.3.1988, mình cho mấy chục anh em công binh lên ở một góc đảo, phía bên kia Trung Quốc cũng đổ quân lên. Rạng sáng, Trung Quốc thấy cờ Việt Nam cắm ở trên đảo đã cho người tới nhổ cờ. Lúc này hai bên xảy ra đụng độ. Quân Trung Quốc dùng dao găm đâm người giữ cờ của ta là thiếu úy Trần Văn Phương và chiến sĩ Nguyễn Văn Lanh. Hai anh đã phản kháng lại. Ngay lập lức lính Trung Quốc bắn súng tiểu liên càn quét khiến các chiến sĩ của ta hi sinh hết. Đó là cuộc thảm sát vì ta chưa hề bắn một viên đạn nào.
Sau đó tàu hộ vệ của Trung Quốc đậu cách hai tàu vận tải 604, 605 của Việt Nam, dùng pháo bắn chìm cả hai tàu, khiến 64 chiến sĩ của ta hi sinh. Sau này khi quan hệ hai nước bình thường trở lại, ta đề nghị trục hai chiếc tàu đó lên nhưng Trung Quốc không cho.
Tôi không xem đây là trận hải chiến. Hải chiến là phải có bắn nhau, phải có đọ pháo. Còn ở đây trong khi Trung Quốc trang bị nhiều vũ khí, tàu chiến hiện đại còn ta không hề có một tàu chiến nào mà chỉ có tàu vận tải. Đó là cuộc thảm sát do lính Trung Quốc hung hăng gây ra. Trung Quốc không bao giờ có tình nghĩa đồng chí, anh em với Việt Nam gì cả mà họ sẵn sàng tiêu diệt ta vì quyền lợi của họ thôi.
Việt Nam phản đối, Trung Quốc cứ xây
* Sau sự kiện Gạc Ma, Trung Quốc có quậy phá gì ở Trường Sa không?
- Sau khi chiếm được Gạc Ma, Trung Quốc cho xây dựng nhà cửa trên đảo. Chính phủ ta gửi công hàm lên án nhưng họ vẫn cứ làm. Nhiều lần Trung Quốc cho tàu cá xuống, vào sát các đảo của mình 1 – 2 hải lý khiêu khích mình. Đối sách của ta sau năm 1988 vừa lên án Trung Quốc nhưng cũng tránh đụng độ dẫn đến tổn thất không cần thiết.
Xin nhắc thêm về trận Gạc Ma. Sau khi xảy ra vụ thảm sát, ta có hai tàu chiến HQ 09 và HQ 11, trên mỗi tàu có bốn pháo 76 li, có thể bắn xa được 10 km. Đây là hai tàu chiến duy nhất của Việt Nam lúc này có thể đi ra được Trường Sa, lại đang đóng ở vùng Tư Chính, Ba Kè. Tướng Cương lệnh hai chiếc này đi lên Gạc Ma. Anh em tác chiến viết và phát lệnh ra nhưng trong lòng rất lo lắng vì lực lượng lúc này quá chênh lệch.
Tuy nhiên, khi tàu đi được khoảng 1 giờ, tướng Cương ra lệnh hủy việc điều hai tàu ra vùng Gạc Ma quay về vị trí cũ. Cùng lúc đó, tướng Cương ra lệnh viết điện gửi Bộ Tổng tham mưu xin cho máy bay Su xuất kích từ sân bay Cam Ranh ra Gạc Ma nhưng Bộ Tổng tham mưu không trả lời đồng ý cho máy bay ra hay không.
Bản thân tôi lúc này nghĩ đó là mẹo của tư lệnh trước diễn biến đang căng thẳng ở Gạc Ma. Sau này khi được hỏi tướng Cương cũng thừa nhận điều này. Thực ra lúc đó lực lượng ta quá mỏng so với đối phương.
- Cảm ơn ông!
(Còn tiếp)
Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm từng làm Phó tham mưu trưởng Hạm đội 171, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 61, Tham mưu phó phụ trách tác chiến của Quân chủng Hải quân, nguyên Giám đốc Học viện Hải quân Việt Nam. Hiện ông là Chủ tịch Hội Khoa học – Kỹ thuật và Kinh tế biển TP.HCM.
Theo TNO
Trung Quốc xây dựng trái phép nhằm độc chiếm Biển Đông
Giành được Biển Đông rồi thì việc quyết định tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông nằm trong tay Trung Quốc.
Đồng thời với việc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển của Việt Nam, Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động xây dựng tại bãi đá Gạc Ma - Chữ Thập - Châu Viên thuộc quần đảo Trường sa thành một căn cứ quân sự quy mô lớn. Theo PGS.TS, Nhà giáo nhân dân, Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm, nguyên Giám đốc Học viện Hải quân Việt Nam, vào năm 1956, theo Hiệp định Geneve 1954 thì 2 năm sau phải tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam, nhưng các thế lực phản động phá hoại cuộc tổng tuyển cử đó. Cũng từ năm 1956, chính quyền Pháp chiếm giữ nam vĩ tuyến 17 nhưng giao cho ông Bảo Đại quản lý. Đó là một lỗ hổng về quyền lực. Lợi dụng thời cơ đó, Trung Quốc cho quân đánh chiếm nhóm đảo phía đông của quần đảo Hoàng Sa và họ bắt đầu xây dựng những căn cứ ở cụm đảo đó, đặc biệt là ở đảo Phú Lâm.
Đến tháng giêng năm 1974, Mỹ rút khỏi Việt Nam và công nhận toàn vẹn thống nhất của của Việt Nam, thì Trung Quốc biết rằng chế độ Việt Nam Cộng hòa không thể thắng nổi nhân dân Việt Nam. Do đó họ cố tình gây căng thẳng với Hải quân Việt Nam Cộng hòa, tạo cớ xua quân đánh chiếm nốt cụm Lưỡi Liềm ở phía tây quần đảo Hoàng Sa. Vì vậy từ năm 1974 đến nay, tròn 40 năm Hoàng Sa nằm trong tay Trung Quốc. Họ từng bước biến quần đảo này thành căn cứ quân sự nhằm vươn bàn tay đầy tham lam xuống phía nam biển Đông, biến "đường lưỡi bò" 9 khúc mà nay là 10 chiếm 80% Biển Đông thành của họ.
Trung Quốc cải tạo đất phi pháp trên bãi Gạc Ma, quần đảo Trường Sa, thuộc chủ quyền Việt Nam (Ảnh: Inquirer)
PV: Thưa Chuẩn Đô đốc, năm 1988, Trung Quốc chiếm 5 bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Được biết khi đó ông đang là Phó Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Hải quân nhân dân Việt Nam. Chuẩn Đô đốc có thể nói rõ về diễn biến khi đó?
Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm: Xin nói rộng hơn một chút. Tình hình biên giới Việt - Trung căng thẳng và xảy ra đánh nhau từ năm 1979. Cho đến năm 1986, chúng ta chủ trương không để đụng độ với người Trung Quốc khi mà phía Trung quốc bắn hàng ngàn đạn pháo vào nước ta, cho quân thám báo xâm nhập Việt Nam. Trên Biển Đông thì họ tăng cường trinh sát các bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa vào cuối năm 1986 và tăng nhịp độ hoạt động trong năm 1987.
Đảng ủy chỉ huy Bộ Tư lệnh Hải quân nhận định: Trung Quốc hòa dịu ở phía Bắc thì sẽ đánh chiếm một số đảo, bãi đá san hô ở quần đảo Trường Sa và thực tế là tháng 2/1988 họ đã cho quân chiếm một số bãi đá san hô như Chữ Thập, Châu Viên... Gạc Ma là bãi đá san hô nằm ở phía nam đảo Sinh Tồn và Sinh Tồn Đông mà Hải quân ta cùng với Quân khu 5 đã giải phóng vào hạ tuần tháng 4/1975, nó nằm giữa quần đảo Trường Sa nên có vị trí chiến lược đối với Biển Đông. Ta chủ trương cố gắng phải đóng giữ.
Tối 13/3/1988, ta cho một bộ phận Công binh lên Gạc Ma. 6 giờ ngày 14/3/1988, Trung Quốc cho quân đổ bộ lên phía đối diện với ta. Trông thấy cờ ta đang tung bay, họ cho lính đến nhổ cờ và tuyên bố đây là đất trung Quốc, ta phải rời đi. Thiếu úy Trần Văn Phương và hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh bảo vệ cờ và xảy ra xô xát giữa 2 bên là lính của Hải quân Trung Quốc đến nhổ cờ và l2 lính của ta.
Lập tức, lính của Trung Quốc phía sau xả xúng vào toàn bộ Công binh, gây nên thảm sát toàn bộ cán bộ chiến sĩ của ta trên đảo Gạc Ma. 7h30 cùng ngày, các tàu hộ vệ của Trung Quốc dùng pháo 10 li bắn chìm 2 tàu vận tải mang số hiệu 604 và 605 của ta ở gần Gạc Ma. Tàu của ta bốc cháy và bị chìm, cán bộ và chiến sĩ đã hy sinh.
Cuộc đụng độ ở Gạc Ma là một vụ thảm sát quân Việt Nam của Hải quân Trung Quốc vì chưa có một cuộc đọ súng nào của Hải quân Việt Nam với Hải quân Trung Quốc, chưa có một tàu chiến nào của Việt Nam ở vùng biển Gạc Ma. Lính Trung Quốc manh động, ủy thế đông và mạnh thảm sát 64 chiến sỹ của Hải quân Việt Nam. Thực tế là không có một cuộc hải chiến nào diễn ra giữa Hải quân Việt Nam và Hải quân Trung Quốc trong tháng 3/1988. Đấy là sự việc Trung Quốc dùng vũ lực để chiếm các đảo, bãi đá san hô của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa.
PV: Thưa ông, chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa, Trung Quốc đã tiến hành xây dựng nhiều công trình ở đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Giờ đây, Trung Quốc đang xây dựng ở Gạc Ma - Châu Viên - Chữ Thập. Vậy toan tính của Trung Quốc ở đây là gì?
Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm: Độc chiếm Biển Đông, giành quyền kiểm soát trên biển và trên không ở Biển Đông là âm mưu lâu dài của các thế lực cầm quyền của Trung Quốc. Muốn độc chiếm Biển Đông, họ tạo cớ và ngụy biện chiếm các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc. Giành được Biển Đông rồi thì việc quyết định tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông nằm trong tay Trung Quốc. Họ đã xây dựng ở Phú Lâm - một hòn đảo lớn trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ năm 1956 và từ đó đến nay họ biến nơi đó thành căn cứ hải quân có sân bay theo hướng bắc - nam dài hơn 2km và xây dựng ở đó những căn cứ hậu cần cho hải quân, họ tìm cách nối dài bàn tay của hải quân xuống phía nam. Từ Hải Nam đến Hoàng Sa, Trung Quốc đã kéo dài sức mạnh hải quân của họ được khoảng 150 hải lý. Đấy là công việc mà Trung quốc từng làm ở Hoàng Sa.
Còn ở Trường Sa, sau khi chiếm 5 bãi đá ngầm thì họ liền tổ chức một cụm đóng quân. Từ những năm 1988 đến nay, họ xây dựng ít. Nhưng thời gian gần đây, vì họ không có khả năng giành và sử dụng những căn cứ chiến lược như Cam Ranh và Su Bích cho nên phải tìm cách biến những bãi đá san hô ở Trường Sa thành những căn cứ của họ. Họ đủ sức để xây dựng những Gạc Ma, Châu Viên, Chữ Thập thành những căn cứ hải quân.
Hiện nay, Trung Quốc đang quyết tâm biến những đảo mà họ chiếm được ở Hoàng Sa và Trường Sa thành những cơ sở hải quân, đưa lực lượng hải quân ngày càng phát triển và hiện đại xuống Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Nếu như hoạt động bình thường thì Hải quân của Trung Quốc có thể đi lại trên vùng công hải và muốn ra Ấn Độ Dương hay Thái Bình Dương cũng không sao cả, nhưng họ muốn chiếm quyền để khống chế toàn bộ Biển Đông.
Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm và phóng viên Lê Bình, VOV1
PV: Thưa Chuẩn Đô đốc, chúng ta phải làm gì để chống lại âm mưu này của người Trung Quốc?
Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm: Chúng ta khẳng định Trung Quốc không bao giờ từ bỏ âm mưu độc chiếm Biển Đông. Cho nên họ tìm mọi cách để xây dựng lực lượng hải quân, mà hải quân thì phải có căn cứ, tốt nhất là căn cứ ven bờ. Do cách hành xử của Trung Quốc nên các nước xung quanh không tạo điều kiện cho họ có được những căn cứ lớn như Cam Ranh, Su Bích hay ở phía Nam Biển Đông.
Chúng ta biết rằng, từ khi giành được đại lục Trung Quốc thì các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc đã xác định tham vọng trở thành một cường quốc khu vực và thế giới. Họ đã từng có những bước đi chiến lược. Ví dụ như những năm 1950 - 1960, họ đề ra sau 20 năm họ vượt nước Anh. Sau cải cách của ông Đặng Tiểu Bình, họ đi từ giấu mình chờ thời đến trỗi dậy hòa bình; rồi nay là giấc mộng Trung Hoa - sẽ quyết tâm giành lấy những vùng đất và trời, biển. Việc Trung Quốc bỏ tiền của để biến những bãi đá san hô ở Hoàng Sa và Trường Sa thành những đảo nhân tạo là trái với Công ước Luật Biển 1982, trái với Hiến chương LHQ và trái với lương tri của nhân dân Trung Quốc và thế giới.
Chúng ta phải cực lực lên án hành động đó; yêu cầu nhà cầm quyền Trung Quốc dừng ngay việc đó lại và thực hiện cam kết giữ nguyên hiện trạng theo DOC mà họ đã cam kết với ASEAN; kêu gọi bạn bè thế giới lên tiếng lên án hành động biến các bãi đá ngầm ở Trường Sa thành đảo của người Trung Quốc. Chúng ta mong muốn được sống, làm ăn hòa bình yên ổn trên vùng đất vùng trời của chúng ta đúng theo luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước 1982 về Luật Biển. Còn những bước đi tiếp theo, nếu họ chủ động gây ra các việc căng thẳng hơn thì chúng ta phải có biện pháp xử lý thích đáng hơn.
PV: Xin cảm ơn Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm./.
Theo VOV
Thiếu tướng Lê Văn Cương: "Biển Đông đang bình lặng nguy hiểm" Một trong những nội dung quan trọng dự kiến được đưa ra thảo luận tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII là vấn đề trên Biển Đông, đặc biệt là việc Trung Quốc âm thầm xây dựng, cải tạo đảo Gạc Ma và đảo Chữ Thập. Xung quanh vấn đề này, Báo NTNN đã có cuộc phỏng vấn Thiếu tướng Lê...