Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền Kỳ 5: Quyết tử
“Chiếm được Gạc Ma, phía Trung Quốc nhanh chóng làm nhà kiên cố nhiều tầng. Xong Gạc Ma, nó định đánh chiếm thêm vài đảo nữa, nhưng mình quyết tử ngăn chặn, nên nó không thực hiện được ý đồ”, đại tá Cao Ánh Đăng nói.
Đảo Gạc Ma đang được Trung Quốc xây dựng thành đảo nổi rộng lớn (năm 2014)
Vẹn nguyên Đá Tây
Đại tá Vũ Huy Lễ (nguyên Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 649 Vận tải Trường Sa) nhớ lại sự kiện sáng 14.3.1988, khi đang là thiếu tá, thuyền trưởng chỉ huy tàu HQ-505 lao lên bãi cạn Cô Lin bảo vệ chủ quyền: “Xung quanh Gạc Ma rất sâu bởi vực biển cả nghìn mét, hôm ấy chúng tôi tìm vết dầu của tàu HQ-604 bị Trung Quốc bắn chìm, nhưng mãi không thấy!”.
Quanh câu chuyện địa hình địa vật Gạc Ma, đại tá Cao Ánh Đăng (nguyên Phó tư lệnh Vùng 4 Hải quân) kể đầu năm 1986, Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương đã dự định đi khắp các đảo nổi, bãi đá ngầm ở Trường Sa để trực tiếp khảo sát nông sâu – điều kiện thủy văn.
Tuy nhiên, do điều kiện thời tiết bất thường, tàu thuyền cũ kỹ không đảm bảo an toàn chuyến đi, nên Tư lệnh Cương không thực hiện được kế hoạch. Công việc này được giao lại cho đại tá Đăng và chính ông Đăng đã có lần khảo sát tại Gạc Ma.
Mít tinh phản đối Trung Quốc chiếm giữ một số đảo ở Trường Sa.
“Ngồi trên xuồng nhìn xuống cứ tưởng mắc cạn đến nơi, nhưng đưa dây đo sâu xuống mới biết là rất sâu và dây nghiêng lệch bởi dòng chảy xiết, ngầm bên dưới”, đại tá Cao Ánh Đăng nhớ lại.
Ông trầm ngâm: “Lúc ấy Trung Quốc tập trung nhiều tàu giả tàu cá ở khu vực Đá Tây. Đây là rạn san hô hình rẻ quạt, nằm theo hướng đông bắc – tây nam, diện tích khoảng 37 km vuông, ở giữa có một hồ lớn, rất thuận lợi cho việc neo đậu tàu thuyền nghỉ ngơi – tránh trú bão và nhất là tôn tạo thành khu vực liên hoàn quốc phòng – kinh tế, trung tâm của Trường Sa. Chính vậy ta tập trung đóng giữ, khiến Trung Quốc phải từ bỏ ý định chiếm Đá Tây”.
Cầm chặt Len Đao – Cô Lin
Đêm 13.3.1988, trong khi đang chỉ huy củng cố phòng thủ Đá Đông, đại tá Nguyễn Văn Dân (lúc đó là trung tá, Phó tham mưu trưởng Vùng 4 Hải quân) được lệnh chỉ huy lực lượng trên tàu HQ-614, hành quân gấp lên phía đảo Sinh Tồn. Do bị 2 tàu chiến Trung Quốc quấy phá, chặn đường nên mãi trưa 14.3, tàu HQ-614 mới đến được đảo Sinh Tồn. Khi đó, các tàu HQ-604, HQ-605 đã bị bắn chìm, HQ-505 của thiếu tá Vũ Huy Lễ đã lao lên Cô Lin.
Chiều và đêm 14.3, tàu HQ-614 đưa anh em thương binh từ các đảo Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin lên đảo Sinh Tồn để cứu chữa và báo cáo tình hình. Sáng 15.3, tàu HQ-614 ra vị trí tàu HQ-605, HQ-604 bị bắn chìm và theo vết dầu nổi lên, xác định được tàu HQ-605 chìm ở cạnh đảo Len Đao. Trưa 15.3, tàu HQ-614 vào khu vực Gạc Ma để tìm dấu vết tàu HQ-604, nhưng bị hai tàu khu trục của Trung Quốc ngăn cản, hung hãn đe dọa.
Video đang HOT
Tàu HQ-505 trên bãi cạn Cô Lin (tháng 3.1988.
Đại tá Vũ Huy Lễ kể tàu HQ-614 neo gần chỗ tàu HQ-505 ở đảo Cô Lin, lập Sở Chỉ huy cụm 2 (Sinh Tồn) ngay trên tàu. Thời điểm này, ta chưa xây dựng được nhà ở trên Cô Lin và Len Đao, mà giữ chủ quyền Cô Lin bằng tàu HQ-505, giữ Len Đao bằng cờ cắm trên đảo và tàu trực HQ-614.
Liên tục trong thời gian dài, các tàu chiến Trung Quốc đe dọa, khiêu khích nhằm đẩy đuổi các tàu Việt Nam. Ban ngày, chúng kè sát bên quay nòng pháo như thể nhả đạn và bắc loa kêu gọi đích danh “thuyền trưởng Vũ Huy Lễ hãy đưa thủy thủ về bờ cho an toàn”, nhưng không dám đổ bộ chiếm đảo vì biết ta bố trí sẵn các tổ chiến đấu, sẵn sàng đánh trả, theo đại tá Lễ.
Nhiều đêm, tàu Trung Quốc tắt đèn, rì rì mò đến định dùng dây kéo tàu ta nhưng bị phát hiện. “Quân ta luôn bình thản, không mắc mưu khiêu khích của đối phương”, đại tá Vũ Huy Lễ khẳng định và cười: “Chúng tôi phân công hết rồi. Nếu nó nhảy sang, B40 sẽ bắn vào đài chỉ huy của tàu nó, còn AK cũng bắn mạnh luôn, mình có hy sinh thì nó cũng phải chết bao nhiêu đứa”…
Tháng 9.1988 trở về đất liền, đại tá Dân đề xuất cách xây dựng đảo Len Đao với Tư lệnh Giáp Văn Cương: Len Đao có doi cát di chuyển theo mùa, khi thủy triều lên cao nhất là doi cát gần ngập. Nên kéo một tàu há mồm nhỏ ra, trên đó có sẵn nhà cao chân và các phương tiện lắp ghép.
Đại tá Dân đề nghị: “Buổi tối mình tập kết cạnh đảo, lúc thủy triều lên cao nhất thì mình đổ bộ, triển khai làm nhà luôn. Tàu Trung Quốc ở ngay đó, nhưng sẽ không kịp phản ứng, không có cớ để đánh mình”. Khoảng tháng 10-11.1988, lúc triều cường, việc xây dựng đảo Len Đao theo đề xuất của đại tá Dân được thực hiện thành công.
“Thiếu từ hạt gạo còn ngăn chặn được”
“Cái khó là Hải quân mình lúc đó còn yếu, không đánh lại nó nên phải khôn khéo để giữ. Đô đốc Giáp Văn Cương luôn dặn chúng tôi mưu mẹo trong giữ đảo”, đại tá Cao Ánh Đăng nhớ lại.
“Chiếm được Gạc Ma, phía Trung Quốc dùng kỹ thuật hiện đại và công binh hùng hậu, nhanh chóng làm nhà kiên cố nhiều tầng. Xong Gạc Ma, nó định đánh chiếm thêm vài đảo nữa, nhưng mình quyết tử ngăn chặn, nên nó mới không thực hiện được ý đồ”, ông Đăng khẳng định.
Chiến sĩ đảo Phan Vinh cảnh giác tàu Trung Quốc rập rình gần đảo (tháng 5.1988).
Tư lệnh Giáp Văn Cương (đầu tiên, hàng 2) tham gia chào cờ với bộ đội đảo chìm Thuyền Chài (tháng 5.1988).
Ít ai biết tháng 3.1988, phía Trung Quốc tung tin cho các Đài phát thanh nước ngoài “bắt sống 2 đại tá hải quân Việt Nam”, nhằm lung lạc ý chí bộ đội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.
Ngay sau đó, hai đại tá Lê Văn Thư (lúc đó là Tư lệnh Vùng 4 Hải quân) và Cao Ánh Đăng lập tức hành quân vào bờ, ra thẳng TP.Nha Trang tham gia cuộc họp báo, tố cáo hành vi chiếm đóng trái phép của Trung Quốc trước các phóng viên báo chí – hãng thông tấn trong và ngoài nước, xong lại ra ngay Trường Sa chỉ huy bộ đội củng cố, xây dựng các đảo.
“Hồi ấy thiếu từ hạt gạo cho đến miếng nước, mà chúng tôi còn ngăn chặn được âm mưu thôn tính của đối phương trang bị hiện đại, đông quân. Nữa là bây giờ, Hải quân ta đã chính quy – tinh nhuệ và hiện đại, thừa sức đập tan mọi hành động xâm phạm chủ quyền thiêng liêng Tổ quốc”, vị đại tá già trầm giọng, hướng mắt sang phía bên kia bờ vịnh. Nơi ấy Quân cảng Cam Ranh ken dày tàu pháo, tàu tên lửa, tàu ngầm hướng mũi sẵn sàng hướng ra địa đầu Tổ quốc: Trường Sa… (Còn tiếp).
“Năm 1988, ta cố gắng rất lớn nhưng cũng không xuể bởi phương tiện tàu thuyền thô sơ, ngay việc đi ra đến đúng đảo cũng chỉ nhờ kinh nghiệm. Ý chí, quyết tâm rất lớn, nhưng tiềm lực, khả năng hạn chế. Quần đảo Trường Sa quá rộng, các điểm đảo cách nhau rất xa, mình chủ trương đóng giữ tất cả các đảo, nhưng phải chú ý đóng giữ các đảo lớn, bãi chìm lớn trước, bãi nhỏ sau. Nhiệm vụ của tôi là xây dựng xong 2 nhà cao chân trên Đá Đông, thì lên Ga Ven, làm xong nhà ở Ga Ven, nếu còn lực lượng, phương tiện – vật liệu thì mới giải quyết nốt điểm Chữ Thập… Nhiều người thắc mắc sao mình không đánh lại ở Gạc Ma. Thực ra, mình không có phương tiện để đánh. Như tàu HQ-605, có 2 bệ pháo 40 ly của Mỹ đã cũ, bắn chắc gì đạn đã nổ. Thứ hai, tàu Trung Quốc nó đậu cách mấy hải lý, nó dùng pháo lớn bắn mình. Mình bắn lại, cũng không với tới. Trung Quốc muốn có chủ quyền bằng sức mạnh. Nếu lúc đó mình đưa tàu chiến ra, tình hình trở nên phức tạp hơn. Có thể xảy chiến tranh khốc liệt, hy sinh của mình lớn hơn. Vì Trung Quốc có phương tiện đầy đủ hơn. Nó đánh từ xa, phóng tên lửa từ xa, từ tàu tuần dương, tàu khu trục cỡ lớn”…
Theo Thanh Niên
Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền Kỳ 1: Kiểm soát 'lá chắn của biển Đông'
Ngay từ ngày đầu tiên tiếp nhận Trường Sa từ tay chính quyền Sài Gòn (đầu tháng 4.1975), những người lính hải quân Việt Nam đã lập tức đối đầu với các con tàu nước ngoài lăm le chiếm đảo. Trong suốt gần 40 năm, sự căng thẳng chưa bao giờ giảm nhiệt trên từng điểm đảo, từng góc trời Tổ quốc nơi biển Đông.
Đại tá Phạm Duy Tam (thứ ba từ trái sang) trong một lần ra thăm Trường Sa (Trung Hiếu chụp lại ảnh tư liệu)
Trong bối cảnh Trung Quốc đang đẩy mạnh hoạt động xây dựng phi pháp tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, nhiệm vụ giữ đảo càng trở nên quyết liệt.
Kỳ 1: Kiểm soát &'lá chắn của biển Đông'
Tháng 4.1975, đại tá Phạm Duy Tam là thuyền trưởng tàu 675 thuộc đoàn tàu không số (hiện là Lữ đoàn 125 hải quân). Sau chiến dịch Mậu Thân 1968, việc vận chuyển vũ khí, đạn dược từ miền Bắc vào Nam bị gián đoạn. Nhiệm vụ của các tàu không số là giả dạng các tàu cá chở vũ khí, đánh bắt ở dọc ven biển, khi có thời cơ sẽ hỗ trợ cho chiến trường miền Nam.
Đại tá Phạm Duy Tam nguyên là thuyền trưởng tàu không số, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn tàu săn ngầm 161 (vùng 3 hải quân), phó chỉ huy trưởng vùng 3 hải quân, phó tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân. Ông về hưu năm 2004.
Thời cơ đến, được lệnh của Bộ Chính trị, ngày 9.4.1975, một biên đội gồm các tàu 673 (trung úy Nguyễn Xuân Thơm làm thuyền trưởng), 674 (trung úy Nguyễn Văn Đức làm thuyền trưởng) và 675 từ Hải Phòng được điều vào Đà Nẵng nhận lệnh đi Trường Sa.
Sau hơn một ngày lênh đênh trên biển, 21 giờ ngày 10.4.1975, ba tàu có mặt ở cảng Tiên Sa. Ở đây, tàu nhận đặc công nước hải quân và một lực lượng phối hợp thuộc Quân khu 5.
4 giờ sáng 11.4.1975, ba tàu được lệnh nhổ neo hành quân ra biển, hướng về Song Tử Tây - một đảo nổi nằm ở phía bắc quần đảo Trường Sa, cách đất liền chừng 470 hải lý (gần 900 km).
"Tàu đi biển trong điều kiện sóng to, gió lớn. Giữa đường thì tàu 674 bị hư máy, tàu của tôi phải kéo. Khó khăn nhất là chúng tôi mất liên lạc với sở chỉ huy ở bờ. Các phương tiện định vị lúc đó trên tàu chỉ có cái la bàn và một số dụng cụ thô sơ để đo tính thiên văn. Cho nên từ đất liền ra Song Tử Tây chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của anh em", đại tá Tam kể lại.
Đại tá Tam cho hay, trước khi ra Trường Sa, cấp trên giao phải tiếp cận đảo mục tiêu lúc 2-3 giờ sáng để gây bất ngờ và không được đánh nhầm vào các đảo do Đài Loan và Philippines kiểm soát.
Ba thuyền trưởng đầu tiên ra giải phóng quần đảo Trường Sa sau năm 1975. Đại tá Tam ngoài cùng bên phải (Trung Hiếu chụp lại ảnh tư liệu).
Chiều 13.4.1975, trinh sát trên tàu báo đã phát hiện đảo Song Tử Tây. Tàu 673 cho quân đổ bộ sát đảo, còn tàu 674 và 675 án ngữ cách đảo 15 hải lý về phía bắc đề phòng tàu lạ xuống và cảnh giới tàu của Việt Nam Cộng hòa (lúc đó tập trung ở đảo Nam Yết).
Rạng sáng 14.4.1975, tàu 673 tiếp cận sát đảo Song Tử Tây, thả thuyền cao su xuống để chở 40 đặc công nước do ông Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy, lặng lẽ ém sát bờ và đổ bổ lên đảo.
Sau 30 phút kể từ khi hiệu lệnh tấn công được phát ra, khoảng 4 giờ 30 phút, bộ đội đã chiếm toàn bộ đảo Song Tử Tây.
"Lúc này ở Trường Sa, phía Việt Nam Cộng hòa chiếm giữ 6 đảo, gồm: Song Tử Tây, Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang, Trường Sa Lớn. Nam Yết được coi là nơi đóng sở chỉ huy của đối phương. Trang bị trên các đảo rất thô sơ, chỉ có một vài dãy nhà tôn lụp xụp, xiêu vẹo", ông Tam nhớ lại.
Cờ bay phấp phới
Sau khi chiếm giữ Song Tử Tây, ông Tam chuyển sang làm thuyền trưởng tàu 674, chở số tù binh về bờ giao cho ban quân quản ở Đà Nẵng. Hai tàu 673 và 675 ở lại củng cố lực lượng, sau đó trở về Đà Nẵng để chuẩn bị lực lượng tiến về các đảo còn lại ở Trường Sa.
Ngày 23.4.1975, quân giải phóng lấy được đảo Sơn Ca. 2 giờ ngày 29.4.1975, toàn bộ 6 đảo nổi do Việt Nam Cộng hòa chiếm đóng đều thuộc quyền kiểm soát của quân giải phóng. Cờ Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam được treo lên. Bộ đội tổ chức lực lượng phòng ngự đề phòng phản công.
Cùng lúc đó, các đơn vị tiến hành gắn bia chủ quyền ở đảo nổi và rải bia chủ quyền ở mép đảo chìm.
Đại tá Tam (cầm lái) trong một lần đi biển (Trung Hiếu chụp lại ảnh tư liệu).
Đại tá Tam cười nói: "Sau hai ngày kể từ khi ta giải phóng Trường Sa, Trung Quốc tổ chức một biên đội tàu kéo quân xuống Trường Sa với ý đồ "giúp đỡ" ta. Nhưng tới nơi, thấy cờ của ta phấp phới bay ở các đảo, quân Trung Quốc đành bỏ về".
Liên quan đến âm mưu thôn tính, độc chiếm biển Đông của Trung Quốc, đại tá Tam lý giải do biển Đông có vị trí quân sự quan trọng, giống như một lá chắn kéo dài từ Trường Sa xuống nhà giàn DK1. Tất cả tàu bè từ eo biển Malacca, đi qua biển Đông đều qua khu vực này.
"Trường Sa giống như yết hầu và con mắt của biển Đông nên Trung Quốc luôn có dã tâm xâm chiếm", ông Tam nói.
Năm 1983, ông Tam quay lại Trường Sa khi có thông tin Malaysia xây dựng nhà trên đảo cách đảo An Bang chừng 60 hải lý. Sau đó, ông Tam cho tàu tới các đảo chìm Châu Viên, Chữ Thập để trinh sát thì vẫn thấy bia chủ quyền của Việt Nam ở đây.
Ngày 14.3.1988, Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm Gạc Ma, trước đó đã chiếm đóng đảo Châu Viên, Chữ Thập. (Còn tiếp)
Lịch sử Lữ đoàn 146, Bộ tư lệnh Vùng 4 Hải quân (đơn vị bảo vệ Quần đảo Trường Sa) ghi rõ: "Tháng 3.1978, trên khu vực Quần đảo Trường Sa thường xuyên xuất hiện máy bay và tàu thuyền của một số nước xâm phạm và tiến hành trinh sát các đảo của ta. Diễn biến tình hình có nhiều phức tạp. Ngoài ra, còn có tàu thuyền giả dạng tàu đánh cá của Trung Quốc, xuất hiện ở vùng Đá Giữa (Đá Đông), Hòn Sập (Phan Vinh), Thuyền Chài...".
Theo Thanh Niên
Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền Kỳ 3: An Bang, Thuyền Chài giữa vòng vây "Tàu Trung Quốc đang rập rình, nên phải chốt giữ ban đêm. Ban ngày đổ bộ công khai lộ liễu, nó lại ào ra chiếm lại thì chết, trong khi tàu bè của mình không bì lại với chúng nó", Đô đốc Giáp Văn Cương, Tư lệnh Quân chủng Hải quân, dặn dò bộ đội. Đảo An Bang, tháng 4.1979 - Ảnh tư...