Giáo viên hạng II đau đầu tìm minh chứng để giữ hạng khi chuyển xếp lương mới
Việc đi tìm các minh chứng cho hạng giáo viên theo các thông tư mới là không hề dễ dàng khi việc lưu trữ hồ sơ của giáo viên ở mỗi trường mỗi khác.
Ngày 12 tháng 3 năm 2021 Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành công văn số 971/BGDĐT-NGCBQLGD “Về việc triển khai thực hiện mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập”.
Theo đó, các Sở Giáo dục và Đào tạo báo cáo về Bộ Giáo dục và Đào tạo phương án triển khai thực hiện mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập trước ngày 30/6/2021 và kết quả bổ nhiệm hạng chức danh nghề nghiệp và xếp lương giáo viên trước ngày 31/12/2021.
Mặc dù cho đến thời điểm này chùm thông tư ban hành ngày 02/02/2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành vẫn còn nhiều chỗ bất cập, tuy nhiên để đảm bảo việc chuyển đổi mã số theo chức danh nghề nghiệp viên chức được kịp thời, đến nay nhiều địa phương đã tiến hành rà soát, lập danh sách để chuẩn bị cho việc bổ nhiệm chức danh giáo viên trong các cơ sở giáo dục công lập.
(Ảnh minh họa: TTXVN)
Mỗi địa phương hiểu văn bản mỗi kiểu
Theo nội dung thông tư 02/2021, đối với giáo viên tiểu học được xếp hạng theo mã số chức danh nghề nghiệp theo thông tư liên tịch số 21/2015/TTLT-BGDĐT-BNV nếu đạt các tiêu chuẩn của hạng chức danh nghề nghiệp theo quy định tại thông tư này thì được bổ nhiệm vào hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học như sau:
a) Giáo viên tiểu học hạng IV (mã số V.07.03.09) được bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng III (mã số V.07.03.29);
b) Giáo viên tiểu học hạng III (mã số V.07.03.08) được bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng III (mã số V.07.03.29);
c) Giáo viên tiểu học hạng II (mã số V.07.03.07) được bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng II (mã số V.07.03.28).
Một số hiệu trưởng các trường tiểu học cho rằng nếu giáo viên tiểu học đang được xếp mã số hạng II, III theo thông tư liên tịch số 21/2015/TTLT-BGDĐT-BNV nếu có đầy đạt trình độ chuẩn đào tạo và có chứng chỉ chức danh nghề nghiệp theo hạng tương ứng thì sẽ nghiễm nhiên được chuyển sang hạng II, III theo thông tư 02/2021 của BGDĐT.
Vì vậy khi triển khai thông tư này các trường chỉ yêu cầu giáo viên thu thập minh chứng về tiêu chuẩn (tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp, trình độ đào tạo, bồi dưỡng, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ),còn phần nhiệm vụ thì không yêu cầu.
Do đó ở những đơn vị này, số giáo viên được chuyển sang hạng II khá lớn, vì phần lớn trước đây những giáo viên có trình độ đại học đều được chuyển sang hạng II.
Ngược lại một số trường ngoài yêu cầu về tiêu chuẩn còn buộc giáo viên phải căn cứ vào nhiệm vụ của từng hạng chức danh nghề nghiệp để bổ sung minh chứng. Nếu giáo viên nào thiếu một nhiệm vụ, đồng nghĩa với việc xuống hạng. Chính điều này đã làm khó cho giáo viên khi không phải ai cũng được phân công các nhiệm vụ như chủ trì các cuộc họp chuyên môn, tập huấn chuyên môn, kiểm tra giáo viên…
Bù đầu đi tìm minh chứng
Việc đi tìm các minh chứng cho hạng giáo viên theo các thông tư mới là không hề dễ dàng khi việc lưu trữ hồ sơ của giáo viên ở mỗi trường mỗi khác.
Cô Ng. T. H (Phú Yên) có thâm niên giảng dạy 26 năm cho biết, ngày mới ra trường, cô được phân công về một trường vùng cao, tại đây cô được nhà trường phân công làm tổ trưởng chuyên môn trong 2 năm. Sau đó cô chuyển công tác về trường hiện tại với nhiệm vụ là giáo viên.
Video đang HOT
Vì vậy khi tìm minh chứng cho nhiệm vụ của giáo viên tiểu học hạng II về “Chủ trì các nội dung bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên môn/chuyên đề ở tổ, khối chuyên môn; tham gia đánh giá, xét duyệt đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng của đồng nghiệp từ cấp trường trở lên”, cô phải về đơn vị cũ nhờ nhà trường xác nhận và trích các biên bản của tổ chuyên môn.
Tuy nhiên vị hiệu trưởng hiện tại không thể giúp đỡ được vì hồ sơ tổ chuyên môn cách đây 20 năm hiện không còn, trong khi ông mới về công tác tại trường này chưa được một nhiệm kỳ.
Cô H cũng cho biết thêm, tại trường cô có một số giáo viên hạng II nhiều năm là giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, chiến sĩ thi đua cơ sở nhưng do không được phân công làm tổ trưởng, tổ phó chuyên môn nên không giữ được hạng.
Trong khi đó có tổ trưởng chuyên môn chưa tham gia một kỳ hội giảng giáo viên giỏi cấp huyện nào, chỉ một lần đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cơ sở nhưng vì có chức vụ nên may mắn được giữ hạng.
Do Bộ Giáo dục và Đào tạo không có một hướng dẫn cụ thể nào về việc thu thập minh chứng của hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên nên ở mỗi địa phương, mỗi trường học hướng dẫn thu thập minh chứng mỗi khác.
Cùng là hạng chức danh nghề nghiệp như nhau nhưng có trường yêu cầu giáo viên phải bổ sung tất cả các minh chứng như bằng khen, giấy khen, chiến sĩ thi đua các cấp, trong khi có trường chỉ yêu cầu một trong các minh chứng trên. Có hiệu trưởng còn yêu cầu giáo viên phải photo các chuyên đề đã chủ trì, giáo án dạy chuyên đề…
Bộ Giáo dục nên điều chỉnh xếp hạng giáo viên
Các thông tư ngày 02/02/2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ra đời đến nay đã bộc lộ khá nhiều bất cập. Việc chuyển xếp lương sang mã số mới ít nhiều có lợi cho một số giáo viên, nhất là giáo viên cấp tiểu học, trung học cơ sở lâu nay có bằng đại học nhưng hưởng lương cao đẳng, trung cấp.
Do đó nên tạo điều kiện để những đối tượng này được sớm hưởng mức lương theo trình độ đại học, còn những đối tượng khác thì phiên sang mức lương tương đương.
Cụ thể giáo viên tiểu học hạng IV (mã số V.07.03.09), hạng III (mã số V.07.03.08), hạng II (mã số V.07.03.07) được chuyển sang hạng III (mã số V.07.03.29); giáo viên trung học cơ sở hạng III (mã số V.07.04.12), hạng II (mã số V.07.04.11) được chuyển sang hạng III (mã số V.07.04.32); giáo viên trung học cơ sở hạng I (mã số V.07.04.10) chuyển sang hạng II (mã số V.07.04.31).
Có thể nói chưa có một thông tư nào về chuyển mã số cho giáo viên của ngành giáo dục từ trước đến nay lại mang đến cho giáo viên nhiều tâm tư như vậy.
Người viết bài này cho rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo nên lắng nghe ý kiến của dư luận xã hội, đặc biệt là đội ngũ giáo viên, những người trực tiếp thụ hưởng những chính sách để có những điều chỉnh phù hợp.
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Rục rịch chuyển hạng, xếp lương mới giáo viên, vui nhất là các thầy cô hạng II
Để không còn tình trạng mỗi nơi xét chuyển hạng xếp lương mỗi kiểu như hiện nay, nhiều hiệu trưởng cũng cho biết vẫn rất cần sự hướng dẫn cụ thể từ cấp Bộ.
Ảnh minh họa
Thời gian này, nhiều địa phương trong cả nước bắt đầu việc chuyển xếp hạng giáo viên theo chùm Thông tư 01; 02; 03; 04/2021/TT-BGDĐT. Điều làm nhiều thầy cô giáo băn khoăn, lo lắng nhất là hiện bản thân đang ở hạng II (cũ) khi chuyển xếp hạng có được chuyển ngang sang hạng II (mới) hay phải xuống hạng III?
Nhiệm vụ của giáo viên hạng II bậc trung học cơ sở khá mở (Ảnh chụp từ Thông tư 03/2021)
Do mỗi đơn vị đọc hiểu văn bản mỗi khác nên giữa các địa phương có sự vận dụng khác nhau dẫn đến việc chuyển xếp hạng và xếp lương giáo viên theo chùm Thông tư 01; 02; 03; 04/2021 rơi vào tình trạng trăm hoa đua nở để không ít giáo viên được hưởng lợi nhưng khá nhiều thầy cô lại quá thiệt thòi.
Trăm hoa đua nở khi chuyển xếp hạng giáo viên
Ví như khi xét Đề án bổ nhiệm và xếp lương vào chức danh nghề nghiệp giáo viên bậc trung học cơ sở theo Thông tư 03/2021, có trường chỉ giáo viên đang làm tổ trưởng chuyên môn được chuyển ngang từ hạng II (cũ) sang hạng II (mới).
Nhưng lại có không ít trường, họ chuyển tất cả giáo viên đang giữ hạng II (cũ) sang hạng II (mới) mà không riêng gì tổ trưởng. Rõ ràng, cách chuyển xếp không đồng nhất thế này, sẽ dẫn đến việc nhiều giáo viên sẽ bị mất quyền lợi rất lớn.
Ngoài việc chuyển xếp hạng, việc các trường còn tranh cãi nhau ở việc chuyển xếp lương. Có trường cho rằng, khi được chuyển qua hạng II mới, giáo viên đang ăn lương ở bậc 2.67; 3.0; 3.33; 3.66; 3.99 đều chuyển sang 4.0. Lại có trường chỉ chuyển cho giáo viên đang ở hệ số 3.99 chuyển qua 4.0.
Hay như việc giáo viên ở hạng II (cũ) công tác chưa tới 9 năm buộc phải xuống hạng III nhưng có địa phương lại cho rằng, đây không phải dự thi hoặc xét thăng hạng mà là chuyển cùng hạng từ hạng cũ sang hạng mới nên không cần áp dụng đủ 9 năm giữ hạng ấy.
Trong phạm vi bài viết này, người viết muốn chia sẻ hiểu biết của bản thân về những quy định chuyển xếp hạng giáo viên bậc trung học cơ sở qua Thông tư 03/2021 để các bạn đồng nghiệp trên toàn quốc cùng trao đổi, thảo luận, làm rõ.
Điều 4. Giáo viên trung học cơ sở hạng II - Mã số V.07.04.31
1. Nhiệm vụ
Ngoài những nhiệm vụ của giáo viên trung học cơ sở hạng III, giáo viên trung học cơ sở hạng II phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
a) Làm báo cáo viên hoặc dạy minh họa ở các lớp bồi dưỡng giáo viên hoặc dạy thử nghiệm các mô hình, phương pháp, công nghệ mới từ cấp trường trở lên;
Chủ trì các nội dung bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên đề ở tổ chuyên môn hoặc tham gia xây dựng học liệu điện tử;
b) Tham gia hướng dẫn hoặc đánh giá các sản phẩm nghiên cứu khoa học và công nghệ từ cấp trường trở lên;
c) Tham gia các hoạt động xã hội, phục vụ cộng đồng; thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong việc tổ chức các hoạt động dạy học, giáo dục học sinh;
d) Tham gia đoàn đánh giá ngoài; hoặc công tác kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên từ cấp trường trở lên;
đ) Tham gia ban giám khảo hoặc ban ra đề hoặc người hướng dẫn trong các hội thi (của giáo viên hoặc học sinh) từ cấp trường trở lên (nếu có).
Xét về nhiệm vụ yêu cầu của giáo viên trung học cơ sở hạng II, tất cả giáo viên đang giữ hạng II (cũ) được chuyển qua hạng II (mới) là đúng?
Thầy giáo Th. (đề nghị không nêu tên) Hiệu trưởng một trường trung học cơ sở tại Bình Thuận phân tích về các nhiệm vụ của giáo viên trung học cơ sở hạng II (mới) được quy định trong Điều 4 như sau:
Đối với yêu cầu của nhiệm vụ a trong Điều 4:
a) Làm báo cáo viên hoặc dạy minh họa ở các lớp bồi dưỡng giáo viên hoặc dạy thử nghiệm các mô hình, phương pháp, công nghệ mới từ cấp trường trở lên; chủ trì các nội dung bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên đề ở tổ chuyên môn hoặc tham gia xây dựng học liệu điện tử;
Với nhiệm vụ này, giáo viên bậc trung học cơ sở nào cũng thực hiện đủ. Bởi yêu cầu về nhiệm vụ khá mở, luôn có từ hoặc đi kèm. Nghĩa là, giáo viên không làm nhiệm vụ này sẽ thực hiện nhiệm vụ khác.
Có người làm báo cáo viên hoặc dạy minh họa ở các lớp bồi dưỡng hoặc dạy thử nghiệm các mô hình mới...
Trong sinh hoạt chuyên môn hàng tháng, giáo viên nào mà chẳng phải dạy xoay vòng các mô hình giáo dục mới, các phương pháp dạy học mới...
Đối với ý chủ trì các nội dung bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên đề ở tổ chuyên môn hoặc tham gia xây dựng học liệu điện tử;
Nếu như chủ trì các nội dung bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên môn, chúng ta nghĩ ngay đến tổ trưởng chuyên môn. Thế nhưng yêu cầu còn mở ra cho nhiều giáo viên khác là hoặc tham gia xây dựng học liệu điện tử; Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy thì thầy cô giáo nào cũng phải tham gia xây dựng học liệu điện tử cho tổ, cho trường.
Đối với yêu cầu của nhiệm vụ b trong Điều 4:
b) Tham gia hướng dẫn hoặc đánh giá các sản phẩm nghiên cứu khoa học và công nghệ từ cấp trường trở lên;
Khác với bậc tiểu học, Phó hiệu trưởng chuyên môn ở trường trung học cơ sở không thể chấm sáng kiến kinh nghiệm (đôi khi không trùng môn) của tất cả giáo viên trong trường. Vì thế, cứ mỗi một sáng kiến kinh nghiệm của giáo viên ở cấp trường đều giao cho các tổ chuyên.
Từ tổ, mỗi giáo viên được phân công đọc, chấm sáng kiến kinh nghiệm của các thành viên tổ mình. Sau đó, cả tổ sẽ chấm lại lần cuối trước khi đưa kết quả lên ban liên tịch nhà trường.
Đối với yêu cầu của nhiệm vụ đ trong Điều 4:
Ở nhiệm vụ đ) Tham gia ban giám khảo hoặc ban ra đề hoặc người hướng dẫn trong các hội thi (của giáo viên hoặc học sinh) từ cấp trường trở lên (nếu có).
Ở nhiệm vụ này, quy định đã mở hoặc người hướng dẫn trong các hội thi (của giáo viên hoặc học sinh) từ cấp trường trở lên (nếu có). Người hướng dẫn trong các hội thi của học sinh thì giáo viên nào chẳng đảm nhận?
Tuy thế, có phải hiệu trưởng nào cũng phân tích thấu tình đạt lý như thế nên trường có hiệu trưởng thấu đáo, giáo viên được nhờ, trường hiệu trưởng khắt khe, giáo viên thiệt thòi.
Để không còn tình trạng mỗi nơi xét chuyển hạng xếp lương mỗi kiểu như hiện nay, nhiều hiệu trưởng cũng cho biết vẫn rất cần sự hướng dẫn, tập huấn cụ thể từ cấp Bộ.
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Bộ nói bỏ các chứng chỉ nhưng lại đòi minh chứng, giáo viên biết tìm đâu ra? Đến nay, yêu cầu các chứng chỉ Ngoại ngữ, Tin học, chức danh nghề nghiệp đối với giáo viên gần như vẫn duy trì như cũ. Khi Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành bốn Thông tư: 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 20/3, nhiều giáo viên đã vui mừng, cảm ơn Bộ Giáo dục và Đào tạo. Họ...