Gian nan chuyện tăng vốn cho 4 “ông lớn” ngân hàng
Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến cuối tháng 8/2019, vốn điều lệ của 4 ngân hàng thương mại có vốn nhà nước (gồm Agribank, Vietcombank, Vietinbank, BIDV) đạt 139 nghìn tỷ đồng, tăng 0,8% so với cuối năm 2018. Tuy nhiên, việc mở rộng tín dụng cho 4 “ông lớn” này đang bị hạn chế do phải đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Vì thế, tăng vốn cho 4 ngân hàng này vẫn là vấn đề cấp bách chưa được giải quyết rõ ràng.
BIDV đã phát hành nhiều đợt trái phiếu để tăng vốn . Ảnh: ST.
Tăng trưởng bị hạn chế
Theo NHNN, các ngân hàng thương mại do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD). Đến cuối tháng 8/2019, năng lực tài chính của các TCTD tiếp tục được củng cố, vốn điều lệ tăng dần qua các năm. Tính đến cuối tháng 8/2019, vốn điều lệ của toàn hệ thống đạt 591,8 nghìn tỷ đồng, tăng 2,57% so với cuối năm 2018 và tăng 15,5% so với cuối năm 2017. Vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống đạt 856,1 nghìn tỷ đồng, tăng 12,3% so với cuối năm 2018 và 29,7% so với cuối năm 2017. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) ở mức 11,9%. Trong đó, vốn điều lệ của các ngân hàng Agribank, Vietcombank, Vietinbank, BIDV đạt 139 nghìn tỷ đồng, tăng 0,8% so với cuối năm 2018; tổng tài sản đạt 5.081 nghìn tỷ đồng, tăng 5,29% so với cuối năm 2018, chiếm 43,01% toàn hệ thống; cho vay thị trường 1 đạt 3.652 nghìn tỷ đồng, chiếm 47,9% toàn hệ thống.
Tại Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 – 2020″ đã đề ra mục tiêu: Tăng vốn điều lệ để bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn theo chuẩn mực Basel II, bảo đảm vai trò chi phối của Nhà nước trong các NHTM Nhà nước, trong đó Nhà nước nắm giữ mức tối thiểu 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết; Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 8/8/2018 phê duyệt “Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030″ đã yêu cầu: Đến năm 2020, các NHTM do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ phải đáp ứng đủ vốn theo chuẩn mực an toàn vốn của Basel II.
Tuy nhiên, theo NHNN, việc nâng cao năng lực tài chính thông qua tăng vốn điều lệ của NHTM Nhà nước nhằm đảm bảo vai trò chủ đạo của các ngân hàng này trên thị trường tài chính tiền tệ thời gian qua gặp nhiều khó khăn. Tổng số vốn cần đầu tư, bổ sung cho các NHTM Nhà nước là khá lớn để đảm bảo đáp ứng yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel II trong khi nguồn lực Nhà nước có thể được sử dụng để tăng vốn cho các ngân hàng này cũng hết sức hạn chế. Vì thế, việc mở rộng tín dụng của các NHTM bị hạn chế do phải đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn trong điều kiện vốn điều lệ của các ngân hàng này chậm tăng trưởng, đặc biệt là đối với Agribank và Vietinbank. Theo đó, tại VietinBank, từ năm 2014 tới nay, VietinBank không được bổ sung thêm vốn điều lệ nên hiện là ngân hàng có tiến độ tăng vốn điều lệ chậm nhất trong số các NHTM Nhà nước. Năm 2018, VietinBank chỉ tăng trưởng tín dụng được 6% (mức tăng trưởng thấp nhất đối với VietinBank trong hơn 10 năm trở lại đây). Từ đầu năm 2019 tới nay, thậm chí VietinBank không thể tăng trưởng tín dụng, ảnh hưởng rất lớn đến khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, tác động trực tiếp tới kết quả kinh doanh của ngân hàng và nguồn thu ngân sách nhà nước.
Video đang HOT
NHNN cho hay, để tăng cường năng lực tài chính cho các NHTM Nhà nước, NHNN đang tích cực phối hợp với Bộ Tài chính xử lý vấn đề tăng vốn cho các NHTM Nhà nước theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Ngân hàng tự tìm cách
Để giải cơn khát vốn, năm 2019, 4 NHTM Nhà nước này đều tìm cách tự tăng vốn bằng cách phát hành trái phiếu, cổ phiếu cho nhà đầu tư trong và ngoài nước. BIDV vừa thông báo sẽ huy động vốn trái phiếu dài hạn với giá trị 9.500 tỷ đồng trong quý IV/2019 đều thông qua hình thức phát hành ra công chúng. Như vậy, tính đến 30/9/2019, BIDV đã phát hành 25.910 tỷ đồng thông qua kênh trái phiếu, trong đó giá trị trái phiếu tăng vốn là 18.359 tỷ đồng. Ngân hàng này cũng đã mua lại 7.000 tỷ đồng trái phiếu năm 2014 và 2.300 tỷ đồng trái phiếu năm 2018 theo điều khoản trái phiếu đã ban hành. Trước đó, BIDV cũng cho biết sẽ phát hành riêng lẻ cho đối tác KEB Hana Bank (Hàn Quốc) 603 triệu cổ phần, với tổng giá trị hơn 20.200 tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ 15% vốn điều lệ của BIDV. Như vậy, hoạt động này của BIDV không những giúp bổ sung vốn hoạt động và tăng vốn tự có mà còn mở thêm khả năng huy động vốn cấp 2.
Ngoài ra, tương tự như cách làm của BIDV, VietinBank cũng công bố chào bán 5.000 tỷ đồng trái phiếu trong quý III, nâng tổng giá trị lũy kế lên 5.650 tỷ đồng. NHNN cho phép VietinBank phát hành 10.000 tỷ đồng trái phiếu với lãi suất tự quyết, trong bối cảnh nhu cầu tăng vốn cấp thiết nhằm cải thiện hệ số an toàn vốn theo chuẩn Basel II. Ngân hàng Agribank cũng phát hành 5 triệu trái phiếu ra công chúng với tổng giá trị lên tới 5.000 tỷ đồng. Agribank cho biết việc này nhằm tăng trưởng thêm nguồn vốn dài hạn đáp ứng nhu cầu cho vay nền kinh tế và tăng vốn cấp 2 đảm bảo các tỉ lệ an toàn và gia tăng cơ hội đầu tư hấp dẫn, hiệu quả đối với khách hàng…
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, để giải quyết triệt để nhu cầu tăng vốn của các ngân hàng thì điều cần thiết không phải là sử dụng ngân sách mà phải tăng tỷ lệ sở hữu cho các nhà đầu tư, giảm tỷ lệ sở hữu của Nhà nước. Chuyên gia tài chính ngân hàng Võ Đình Trí cho rằng, muốn tăng quy mô vốn của các NHTM Nhà nước thì phải cổ phần hóa mạnh hơn, tăng room cho các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, các chuyên gia cũng nhận định, nguồn vốn từ nhân dân và các nhà đầu tư trong nước còn rất nhiều, nên có thể tăng sự hấp dẫn của các ngân hàng để huy động nguồn lực, trong khi nếu dùng ngân sách sẽ tạo thành “gánh nặng” cho Nhà nước, giảm bớt chi thường xuyên cho an sinh xã hội.
Hương Dịu
Theo Haiquanonline.com.vn
Ngân hàng trong nước vẫn loay hoay với Basel II
Còn hơn 2 tháng nữa các NHTM cơ bản phải đáp ứng chuẩn mực của Basel II. Tuy nhiên, hiện nhiều ngân hàng đang gặp khó trong việc tăng vốn điều lệ.
Đến thời điểm này, việc tăng vốn của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện đang trở nên rất nóng, nhất là khi Thông tư 41 về quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hiệu lực thi hành từ 1/1/2020.
Theo số liệu cập nhật của Ngân hàng Nhà nước, đến nay đã có 17 ngân hàng thương mại đăng ký áp dụng Thông tư 41 trước thời hạn. Trong đó có 10 ngân hàng là Vietcombank, TPBank, Techcombank, MSB, HDBank VIB, OCB, VPBank, MB, ACB, đã được cấp "giấy chứng nhận" áp dụng Basel II.
Trong "hành trình" tăng vốn điều lệ, VIB là một ví dụ điển hình. Ngân hàng này vừa tăng vốn điều lệ thành công từ 7.834 tỷ đồng lên 9.245 tỷ đồng, tương đương với tăng thêm 18%. Tiếp đó, OCB cũng đã nâng vốn điều lệ từ mức 6.599 tỷ đồng lên 7.898 tỷ đồng.
Ngân hàng SEABank cũng vừa hoàn thành đợt chào bán cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu để tăng vốn từ 7.688 tỷ đồng lên 9.369 tỷ đồng trong tháng 9 vừa qua.
Nhiều ngân hàng gặp khó trong việc tăng vốn điều lệ để đáp ứng chuẩn Basel II. (Ảnh minh họa: KT)
Vốn điều lệ tăng sẽ giúp các ngân hàng tăng năng lực tài chính, tạo điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng mạng lưới hoạt động, đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ... Quan trọng hơn cả là để đáp ứng chuẩn Basel II đang cận kề.
Theo lộ trình mà Chính phủ đề ra, đến năm 2020, cơ bản các ngân hàng thương mại sẽ phải có mức vốn tự có đáp ứng chuẩn mực của Basel II, trong đó, ít nhất 12-15 ngân hàng áp dụng thành công toàn bộ tiêu chuẩn này.
Như vậy, thời hạn còn lại chưa đầy 2 tháng nữa, việc tăng vốn điều lệ đang trở nên cấp thiết. Tuy nhiên, công việc này lại không hề dễ dàng.
Theo bà Trần Thị Thu Hằng, đại diện Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước, một số ngân hàng đang trong quá trình kiểm soát đặc biệt và gặp khó khăn trong việc tăng vốn, nên khả năng thực hiện đúng lộ trình Basel II sẽ khó khăn. Do đó, khi sửa đổi Thông tư 36, Ngân hàng Nhà nước đã bổ sung điều khoản của Thông tư 41, cho phép các ngân hàng có thêm thời gian thực hiện Thông tư 41. Tuy nhiên, sẽ không giãn hay hoàn thời gian thực hiện mà sẽ có những điều khoản chặt chẽ, yêu cầu quy định về hệ số rủi ro cao hơn đối với những ngân hàng này.
Theo chuyên gia tài chính - ngân hàng Nguyễn Trí Hiếu, Thông tư 41 quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% đã tiến gần đến quy định quản lý rủi ro của Basel II, nhưng Thông tư 41 mới chỉ là một phần của Basel II, bởi các quy định và tiêu chí trong Hiệp ước này rộng và còn phức tạp hơn nhiều.
Ông Hiếu nhận định, nhiều ngân hàng vẫn gặp khó khăn trong việc áp dụng Base II trong năm 2020. Ngoài một số ngân hàng được NHNN công nhận có khả năng áp dụng Basel II thì có tới số Ngân hàng thương mại cổ phần sẽ không thể áp dụng Basel II cho đến cuối năm 2020.
"Ngân hàng phải có một dữ liệu về những loại tài sản rủi ro của mình từ nhiều năm, những dữ liệu đó sẽ cho ngân hàng biết về mức độ rủi ro của mỗi món vay hay mỗi loại tín dụng. Có một số ngân hàng không lưu trữ dữ liệu một cách thống nhất từ nhiều năm nay, mỗi năm lại thay đổi tính chất của loại nợ, ví dụ như cho vay bất động sản lúc thì tính là kinh doanh, có thời điểm lại tính vào tiêu dùng. Đây là vấn đề mà các ngân hàng Việt đang gặp nhiều trở ngại", TS. Nguyễn Trí Hiếu cho biết.
Theo NHNN, kể từ 1/1/2020, tất cả các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải tuân thủ quy định tỷ lệ an toàn vốn theo phương pháp tiêu chuẩn tại Thông tư 41. Từ năm 2021, các ngân hàng áp dụng quy trình đánh giá nội bộ mức độ đủ vốn (ICAAP) theo Basel II. Từ năm 2023, một số ngân hàng áp dụng chuẩn mực an toàn vốn theo phương pháp nâng cao cơ bản (FIRB) của Basel II./.
Theo Chung Thủy/VOV.VN
Sớm áp chuẩn Basel II giúp ngân hàng có được rào chắn rủi ro Ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc OCB cho rằng, triển khai Basel II là biện pháp tối ưu để các ngân hàng thương mại trụ vững trước những biến động khó lường của thị trường tài chính. Basel II cũng được xem như là rào chắn rủi ro hiệu quả trong hoạt động của Ngân hàng. Mặc dù không nằm trong 10...